Sunday, May 29, 2016

VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH LỊCH SỬ CHÂU Á 60 NĂM ĐẤU TRANH THẾ KỶ XIX.


PGS. TS. Nghiêm Đình Vỳß


Khi tìm hiểu vương triều Nguyễn từ khi thành lập đến lúc thực dân Pháp mở đầu cuộc xâm lược nước ta không thể không đặt Việt Nam trong bối cảnh lịch sử châu Á lúc bấy giờ, đặc biệt với Trung Quốc, Nhật Bản, các nước Đông Nam Á, vốn có mối quan hệ từ lâu với Việt Nam.
Lịch sử đã chứng tỏ rằng, vào thời cổ đại và buổi đầu của chế độ phong kiến, nhiều nước ở châu Á đạt đến trình độ phát triển kinh tế, văn hóa khá cao, trong khi không ít nước Âu, Mỹ còn ở trong trình độ thấp hơn. Do những điều kiện khách quan, chủ quan và sự phát triển không đều của các quốc gia trong lịch sử, nhiều nước phương Tây chuyển sang chủ nghĩa tư bản và đi xâm lược các nước phương Đông làm thuộc địa. Không phải các nước tư bản thực dân mạnh hơn thì tất yếu phải đánh thắng các quốc gia, dân tộc chậm phát triển. Chúng ta đã biết, nhiều nước nhỏ yếu, như Việt Nam, đã làm cho các đội quân xâm lược hùng mạnh, được trang bị “tận răng” phải “vẫy đuôi xin hang” (Nguyễn Trãi, Bình Ngô đại cáo). Trách nhiệm làm mất nước  là do các chính quyền phong kiến nhiều quốc gia đã suy yếu, lại bạc nhược  về ý chí chiến đấu, không có khả năng, cũng như không dám  huy động nhân dân đứng lên kháng chiến chống ngoại xâm. Các nước thực dân phương Tây đã lợi dụng tình hình suy yếu của chính quyền phnong kiến (sự chia rẽ, tranh giành trong triều, mâu thuẫn sâu sắc giữa nhân dân và phong kiến) đã tiến hành xâm lược.
Vào buổi đầu thời cận đại, thuộc địa của các nước châu Âu ở châu Á chưa nhiều. Bồ Đào Nha là cường quốc châu Âu đầu tiên xây dựng đế quốc thuộc địa của mình ở phương Đông vào cuối thế kỷ XV – đầu thế kỷ XVI. Sự bành trướng của người Bồ Đào Nha ở khu vực này cũng gặp khó khăn, vì các vương quốc ở đây còn khá mạnh, luôn tấn công vào kẻ xâm lược, muốn nhanh chóng mở rộng quyền lực và ảnh hưởng của họ. Hơn nữa, sự cạnh tranh của các thương nhân phương Tây cũng la một trở ngại cho việc phát triển lực lượng của chúng. Tuy có sự thỏa thuận giữa hai cường quốc thực dân Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, nhưng mâu thuẫn giữa Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp…ở phương Đông cũng rất gay gắt.
Từ thế kỷ XVIII, cuộc chạy đua xâm chiếm thuộc địa  của các nước tư bản ở châu Á dần dần xác lập vị trí của thực dân Anh, Pháp ở vùng này, và Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan đã bị loại khỏi cuộc đua, chỉ chiếm giữ một số thuộc địa. Năm 1702, Anh chiếm đảo Côn Lôn (nay là Côn Đảo) làm căn cứ, nhưng một năm sau phải rút chạy, vì không chống nổi cuộc đấu tranh của nhân dân trên đảo, với sự giúp sức của chúa Nguyễn. Anh hoàn thành việc xâm chiếm Ấn Độ, Mã Lai, tiến hành xâm lược Miến Điện (nay là Myanma)…Thực dân Pháp đã thực hiện âm mưu về kế hoạch xâm lược Việt Nam, Lào, Campuchia. Cuộc “đong tiến” và “tây tiến” của thực dân Anh và Pháp sẽ gặp nhau, đọ sức đôi bên ở Xiêm La. Do những cải cách của triều đình Xiêm La và sự dung hòa lực lượng của Anh và Pháp, Xiêm La trở thành “nước đệm” nhưng thực tế vẫn là nước phụ thuộc của Anh. Mỹ đến gõ cửa Nhật Bản vào giữa thế kỷ XIX (1852) và sẽ hất Tây Ban Nha khỏi Philippin vào cuối thế kỷ này. “Trung Quốc rộng lớn, là miếng mồi béo bở của các nước tư bản Âu Mỹ, dang bị suy yếu: nhưng dẫu sao con số 11.136.000km vuông của nó cũng vẫn là miếng mồi quá to mà cái mõm của chủ nghĩa đế quốc thực dân không thể nuốt trôi ngay một cái được.Và không thể trong một ngày mà đẩy một cách tàn bạo 489.500.000 người Trung Quốc vào xiềng xích của chế độ nô lệ thuộc địa. Cho nên người ta cắt vụn Trung Quốc ra: cách này chậm hơn nhưng khôn hơn”[1].
Các nước thực dân Âu, Mỹ, đi đầu là Anh, từ 1635 trở đi đã lần lượt “liên quân” với nhau xâu xé Trung Quốc. Năm 1857 – 1858 liên quân Pháp – Anh đánh phá Quảng Châu và buộc triều đình Mãn Thanh phải ký điều ước Thiên Tân (27 – 6 – 1858). Việc đánh chiếm Trung Quốc không chỉ để chia nhau “chiếc bánh ngọt khổng lồ Trung Quốc” mà còn để hạ uy thế của “Thiên Triều” Bắc Kinh với các chư hầu ở châu Á và các nước tư bản phương Tây sẽ thay vào vị trí thống trị này.
Trước tình hình như vậy, ở các nước châu Á nổi lên một số vấn đề có liên quan đến Việt Nam.
Thứ nhất, nhìn chung chính quyền phong kiến ở hầu hết các nước châu Á đều không có thiệ chí, khả năng tập hợp nhân dân để chống xâm lược, dù trong hang ngũ của giai cấp thống trị đã xuất hiện không ít những người yêu nước quyết tâm bảo vệ Tổ Quốc, như Đipônêgôra ở Inđônêxia, Pucom Pao của Campuchia, Maha Banđula ở Miến Điện, nhà vua tre Xirat Ut Đôilê ở Ấn Độ, Hàm Nghi và các sĩ phu yêu nước Việt Nam…Hầu hết các nước bị xâm lược, lúc đầu triều đình phong kiến cũng tổ chức kháng chiến, nhưng dần dần chuyển sang nhượng bộ, đầu hang làm tay sai.
Thứ hai, trong thời kỳ chế độ phong kiến suy yếu, ách thống trị càng đè nặng lên các tầng lớp nhân dân, mâu thuận giữa triều đình và nhân dân lao động, đặc biệt là nông dân càng trở nên gay gắt. Có thể xem thế kỷ XVII – XVIII ở nhiều nước châu Á là các thế kỷ của những cuộc khởi nghĩa nông dân lớn.
Ở Việt Nam phong trào nông dân đã bùng lên mạnh mẽ ở Đàng Trong và Đàng Ngoài mà đỉnh cao là khởi nghĩa Tây Sơn và trở thành cuộc chiến tranh nông dân đánh bại các tập đoàn phong kiến trong nước và quân phong kiến xâm lược Xiêm La, Mãn Thanh, đặt cơ sở cho sự thống nhất đất nước.
Ở Trung Quốc, phong trào nông dân Thái Bình Thiên Quốc nổ ra ở Quảng Tây rồi lan rộng khắp 18 tỉnh, kéo dài trong 14 năm đánh bại quân triều đình Mãn Thanh ở nhiều nơi, xây dựng chính quyền mới, ban hành “Chế độ ruộng đất của Thiên Triều” – một cương lĩnh về ruộng đất, làm cho mọi người” “Có ruộng cùng cày, có cơm cùng ăn, có áo cùng mặt, có tiền cùng tiêu, không nơi nào là không đồng đều, không ai là không no ấm”.
Ở Nhật Ban, phong trào đấu tranh của nông dân cũng rất sôi nổi: “Theo thống kê, thế kỷ XVII có 188 cuộc khởi nghĩa, thế kỷ XVIII có tới 514 cuộc và trong 67 năm thế kỷ XIX có tới 538 cuôc.
Các cuộc khởi nghĩa lan dần đến ven hoặc vào thành phố như Ê đô, Nagasaki, Takayama và cả hầm mỏ Ykumô”[2]. Đặc biệt phong trào nông dân Nhật Bản trong những thập niên 30 – 40 của thế kỷ XIX đã có mục tiêu đấu tranh rõ rệt, nhằm đòi giảm thuế, giảm tô, chống ách áp bức của bọn thống trị các cấp, sự đầu tư tích lũy của bọn cho vay nạn lãi.
Ở Miến Điện, vào đầu thế kỷ XIX, một cuộc khởi nghĩa lớn của nông dân, nổ ra vào năm 1810, nhằm chống ách áp bức phong kiến và sự chuyên quyền của các quan lại. ngoài ra còn có nhiều cuộc đấu tranh của nông dân các dân tộc ít người, như của người Môn, kéo dài suốt từ nửa sau thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX.
Nhìn chung, trong các thế kỷ XVII, XVIII và nủa đầu thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh của nông dân bùng nổ sâu rộng ở hầu hết các nước châu Á – một biểu hiện về sự suy yếu của chế độ phong kiến. Tuy các cuộc khởi nghĩa nông dân lần lượt bị thất bại, song cũng làm cho chế độ phong kiến càng them lung lay. Tuy  vậy, trước nạn ngoại xâm của tư bản, thực dân phương Tây, nông dân ở hầu hết các nước châu Á đã tạm gác quyền lợi của giai cấp mình, đặt quyền lợi dân tộc lên trên. Họ đã cùng triều đình chống quân xâm lược, song khi chính quyền phong kiến nhượng bộ, đầu hang, thì nông dân chống lại lệnh “bãi binh” của triều đình, rồi chống cả thực dân xâm lược và giai cấp phong kiến đầu hang.
Hiện tượng trên cũng diễn ra ở Việt Nam, khi mà phong trào chống Pháp của nhân dân đã đi đến nhận thức rằng: chống Pháp phải đi đôi với việc chống triều đình đầu hang:
“Dập dìu trống đánh cờ xiêu,
Phen này quyết đánh cả Triều cả Tây”
Trong phong trào KATIPUNAN (“Liên hiệp những người con yêu quý của nhân dân”) ở Philippin vào cuối thế kỷ XIX, đã dần dần kết hợp phong trào yêu nước với phong trào nông dân, nhằm thực hiện các mục tiêu dân tộc, xã hội và giai cấp:
“Mọi người được bình đẳng, không phân biệt màu da, giàu nghèo và địa vị xã hội.
-          Chống áp bức xã hội, bảo vệ những người bị áp bức.
-          Giành độc lập tự do cho Tổ quốc.”
Ở Miến Điện trong cuộc kháng chiến ba lần chống xâm lược của thực dân Anh, nhân dân đã cùng quân triều đình ngăn chặn âm mưu và kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của kẻ thù, làm cho chúng phải mất 60 năm (1824 – 1885) mới chinh phục được Ấn Độ.
Phong trào nông dân Thái Bình Thiên Quốc, đã dần dần nhận thấy rằng, phải đánh thắng cả triều đình Mãn Thanh lẫn bọn thực dân phương Tây đã cấu kết chặt chẽ với nhau. Mục tiêu giai cấp và dân tộc từng bước được kết hợp với nhau trong phong trào nông dân Thái Bình Thiên Quốc, để đến phong trào Nghĩa Hòa Đoàn (đầu thế kỷ XX) thì cuộc đấu tranh chống đế quốc trở nên mạnh mẽ và khi triều đình Mãn Thanh đã bỏ rơi phong trào, hòa hoãn với đế quốc xâm lược, thì từ đấu tranh nổi dậy rộng lớn của nông dân chống cùng triều đình chống đế quốc, trở thành cuộc đấu tranh dân tộc chống cả phong kiến, thực dân để bảo vệ nền độc lập của đất nước.
Cuộc khởi nghĩa đã bị đế quốc và phong kiến Mãn Thanh cấu kết dìm trong bể máu.
Nhìn chung phong trào nông dân ở châu Á vào các thế kỷ XVIII, XIX đã nổ ra liên tiếp, kéo dài, lan rộng nhiều nơi và dân dần kết hợp với mục tiêu chống xâm lược, giải phóng dân tộc. Phong trào đã lần lượt thất bại, vì thiếu đường lối đúng, chua xác định được con đường cứu nước mới, chưa thoát khỏi con đường cứu nước kiểu phong kiến đã lỗi thời. Người dân không thể tự mình giải phóng cho mình mà sẽ đi vào con đường phong kiến hóa. Lịch sử không bao giờ đặt ra cho mình vấn đề không được giải quyết, như Các Mác đã khẳng định. Sự phát triển hợp quy luật xã hội đã xuất hiện giai cấp công nhân đảm nhận sứ mệnh giải phóng nhân dân, trong đó có nông dân và bản than mình, giành được độc lập, xây dựng xã hội văn minh, tiến bộ.
Thứ ba, sức sống của xã hội của các nước châu Á dưới chế độ phong kiến đang suy yếu được thể hiện ở những xu thế canh tân đất nước với nhiều mức độ, hình thức khác nhau. Mầm mống tư bản chủ nghĩa đã xuất hiện và phát triển. Giai cấp phong kiến trong nước đã tìm mọi cách để bóp chết các mầm móng này. Bọn thực dân, tư bản phương Tây khi tiến hành các cuộc xâm lược và đô hộ ở phương Đông cũng thực hiện âm mưu tiêu diệt mọi sức sống mới, tiên tiến trong xã hội các nước thuộc địa. Vì vậy, những xu hướng canh tân đất nước ở các nước châu Á vào nửa đầu thế kỷ XIX đã tồn tại và phát triển rất khó khăn. Bởi vì, các xu hướng duy tân và việc tực hiện thành công các cuộc duy tân đất nước gắn liền với sự hạn chế (chưa phải lật đổ) chế độ phong kiến suy yếu, lỗi thờ và việc đánh thắng sự xâm lược đô hộ của các tư bản. Giai cấp phong kiến trong nước với tư tưởng bảo thủ, không dễ chấp nhận sự thay đổi phương hại đến quyền lợi của giai cấp mình. Bọn thực dân, tư bản ra sức kìm hãm các nước nhỏ yếu dễ thống trị, không cạnh tranh với nhau.
Tuy vậy, xu hướng canh tân đất nước vẫn là xu hướng chung của nhiều nước ở phương Đông. Thế kỷ XIX cũng là thế kỷ của xu hướng duy tân theo con đường tư bản chủ nghĩa. Xu thế duy tân có thể trở thành hiện thực hay không còn tùy thuộc vào cơ sở xã hội, thái độ của triều đình phong kiến mỗi nước. Điều này chúng tôi sẽ không trình bày ở đây, nhưng nhấn mạnh rằng những điều kiện chủ quan và khách quan để thực hiện một cuộc canh tân đất nước đã khá chin muồi ở nhiều nước. Sự phản ứng, chống đối của phe đối lập, sự sáng suốt của một số người cầm đầu, lực lượng của phái duy tân ở mỗi nước sẽ là yếu tố thành công hay thất bại của công cuộc canh tân đất nước. Chính điều này sẽ là một cơ sở để các nhà nghiên cứu có thái độ đúng, khách quan khoa học đối với trách nhiệm làm mất nước của giai cấp phong kiến ở nhiều  nước châu Á.

Ø
                                                                 Ø        Ø
Đặt Việt Nam vào bối cảnh chung lịch sử thế kỷ XIX, trước khi thực dân phương Tây mở rộng và hoàn thành sự xâm lược, đô hộ các nước châu Á là cần thiết để hiệu rõ nguyên nhân mất nước và trách nhiệm của triều đình Huế trong việc để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp. Một thái độ khách quan, khoa học, dựa trên cơ sở tài liệu lịch sử chính xác sẽ đưa đến những nhận định đúng đắn, không áp đặt, công bằng và công minh lịch sử.



ß Ban Khoa giáo Trung ương
[1] Hồ Chí Minh toàn tập, xuất bản lần thứ hai, tập 1. NXB CTQG, Hà Nội 1995, tr. 308
[2] Vũ Dương Ninh – Nguyễn Văn Hồng: Đại cương lịch sử thế giới cận đại, tập 2, NXB Giáo dục, 1997, tr. 10.

No comments:

Post a Comment