Việt
Nam “vốn xưng văn hiến từ lâu” (Nguyễn Trãi)
nghĩa là có nền giáo dục sớm phát triển.
Xuất
phát từ nhu cầu xây dựng quốc gia phong kiến Đại Việt, nhà Lý đã ý thức được
vai trò của giáo dục và việc tuyển chọn nhân tài nên đã đặt nền móng cho chế độ
khoa cử phong kiến Việt Nam với việc mở khoa thi Minh Kinh đầu tiên vào năm
1075. Lúc đầu chưa có tên khoa thi, sau đó nhà Lý mở thêm một số kỳ thi: “1163
– 1173 có khoa thi Thái học sinh, quy chế thi cử khá đầy đủ”[1].
Năm 1195 có kỳ thi tam giáo (Nho, Phật, Lão). Tuy nhiên chế độ khoa cử thời Lý
chưa được xây dựng qui củ, nề nếp về cả nội dung, hình thức và thời gian mở các
khoa thi và chỉ khi có nhu cầu nhà nước mới mở khoa thi.
Kế
tục sự nghiệp của nhà Lý, nhà Trần đã nhận thức được yêu cầu bức thiết của việc
xây dựng một chế độ khoa cử, phát triển giáo dục Nho học nên ngày càng mở nhiều
khoa thi với tên khoa thi phân biệt ở các cấp và xây dựng phép thi rõ ràng. Năm
1232 nhà Trần mở khoa thi Thái học sinh đầu tiên chọn lấy Tam giáp (nhất, nhị,
tam giáp), năm 1247 bắt đầu thực hiện lấy tam khôi (chọn ba người đỗ đầu: Trạng
Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa), năm 1305 lấy thêm Hoàng Giáp và sau Tam khôi.
Đồng thời nhà nước qui định rõ ràng 7 năm tổ chức thi Hội 1 lần, sau đó mới mở
thi Đình để phân hạng cao thấp các Thái học sinh. Kỳ thi Hương ở địa phương
cũng được tổ chức tạo nên sự đồng bộ trong việc xây dựng chế độ khoa cử từ thấp
đến cao. Nôiọ dung ở các kỳ thi, các sách học chính cũng được nhà nước qui định
rõ ràng.
Cuối
thế kỷ XIV triều Trần suy thoái. Điều này thể hiện rất rõ ở sự ăn chơi sa đọa,
mâu thuẫn trong nội bộ tầng lớp quý tộc và ra sức bóc lột tầng lớp nhân dân làm
cho đời sống của họ vô cùng lầm than dẫn đến việc bùng nổ các phong trào khởi
nghĩa nông dân. Đó còn là sự bất lực của nhà Trần trước các yêu cầu và âm mưu
xâm lược của các thế lực phong kiến bên ngoài (Chămpa, nhà Minh). Trong bối
cảnh đó, nhu cầu đặt ra là phải xây dựng bộ máy nhà nước quân chủ tập trung
quan lieu thay thế nhà nước quân chủ quý tộc bảo thủ của vương triều Trần. Hồ
Quý Ly nổi lên với vai trò của mộ nhà cải cách. Cùng các cải cách chính trị,
quân sự, kinh tế, ông cũng đưa ra cải cách chế độ khoa cử. Đó là sự thay đồi
nội dung thi, thời gian tổ chức các kỳ thi mang ý nghĩa tiến bộ; năm 1396 qui
định trong kỳ thi Hương ở các lộ bỏ lối thi viết ám tả cổ văn, chỉ thi kinh
nghĩa, thơ Đường luật, thi chiếu, biểu, chế và bài văn sách, năm 1400 đưa thêm
nội dung toán vào kỳ thi Hương. Hồ Quý Ly cũng qui định năm trướ tổ chức thi
Hương, năm sau thi Hội, những người đỗ kỳ thi Hội được phép dự thi đình để phân
biệt cao thấp. Những cải cách này của Hồ Quý Ly là một bước đột phá mang ý
nghĩa tiến bộ trong việc xây dựng một nền văn hóa giáo dục dân tộc gắn liền với
yêu cầu của xã hội đương thời.
Dưới
thời Lê sơ, khoa cử ngày càng được quan tâm hoàn thiện cơ chế hoạt động tuyển
chọn nhân tài bổ sung cho bộ máy nhà nước quân chủ trung ương tập quyền mới
được xác lập. Nhà nước qui định tổ chức đều đặn kỳ thi hương ba năm một lần ở
địa phương và năm sau đó mở khoa thi Hội tại kinh đô cho những ngườ đỗ thi
Hương tham dự. Những người đỗ thi Hội được dự kỳ thi Đình (thi văn sách) trong
đó phải thể hiện được hiểu biết thực tiễn của mình. Để đảm bảo tính chặt chẽ,
nghiêm túc của các ký thi, năm 1462 Lê Thánh Tông đã qui định “Bảo kết” tại kỳ
thi Hương (chứng thực và chịu trách nhiệm về lý lịch người thi) giao trách
nhiệm cho chính quyền địa phương sở tại. Hơn thế nữa, nhà Lê đã đặt ra lệ xướng
danh, yết bảng, ban mũ áo, phẩm tước và dựng bia tiến sĩ từng khoa. Điều này
đánh dấu sự hoàn thiện hơn trong chế độ khoa cử của triều Lê dựa trên sự kế tục
các vương triều trước đó.
Bước
sang thế kỷ XVI – XVII lịch sừ Việt Nam lại chứng kiến sự suy sụp của
triều Lê và sự phân chia đất nước với sự tồn tại của chính quyền Lê –Trịnh ở
Đàng ngoài và chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng trong. Chế độ khoa cử vẫn tiếp tục
được duy trì ở cả Đàng trong và Đàng ngoài nhưng biểu hiện rõ sự sa sút, suy
thoái do ảnh hưởng của quan hện tiền tệ và sự sa đọa thối nát của đội ngũ quan
lại như ở Đàng ngoài, còn Đàng trong lại hạn chế thi cử với niên hạn quá dài (9
năm), lấy số lượng người đỗ rất hạn chế).
Sau
khi đánh đổ các thế lực phong kiến cát cứ trong nước và thế lực phong kiến
ngoại xâm, Nguyễn Huệ đã ban hành hàng loạt các chính sách để khôi phục, phát
triển đất nước trong đó vấn đề xây dựng lại chế độ khoa cử cũng được chú trọng.
Năm 1789 ông cho tổ chức lại kỳ thi Hương ở Nghệ An. Nét mới trong nội dung thi
cử dưới thời Quang Trung là đưa chữ Nôm vào các kỳ thi thay cho chữ Hán và các
thí sinh phải viết, làm thơ phú bằng chữ Nôm. Điều này thể hiện mong muốn lớn
của Quang Trung trong việc xây dựng một nền giáo dục mang đậm bản sắc dân tộc.
Triều
Nguyễn tồn tại từ 1802 – 1845 đã xây dựng, duy trì được chế độ khoa cử từ năm 1807 đến năm 1818. Thi
Hương bắt đầu từ thời Gia Long (1807), thi Hội bắt đều từ thời Minh Mệnh
(1822), niên hạn mở các khoa thi Hương, thi Hội, thi Đình ở các đời vua kôhng
đồng nhất tùy thuộc vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Đời Gia Long 6 năm mở một
khoa thi Hương, đời Minh Mệnh 3 năm mở một khoa thi. Các qui định về nội dung
thi hầu như không thay đổi, nhưng hình thức tổ chức thi chặc chẽ hơn, danh hiệu
đỗ đạt được phân chia cao thấp rõ ràng. Những người thi đậu 4 kỳ gọi là Hương
cống (thời Gia Long), gọi là Cử nhân (thời Minh Mệnh), người đậu 3 kỳ thi gọi
là Sinh đồ (thời Gia Long), tức Tú tài (thời Minh Mệnh). Việc xây dựng chế độ
khoa cử từ đời Gia Long đến đời Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức ngày càng mạnh mẽ
hơn thực chất là sự phản ảnh yêu cầu chuẩn hóa quá trình đào tạo đội ngũ quan
lại quan lại bắt đầu từ triều Minh Mệnh sau khi tiến hành việc thống nhất hành
chính trên toàn quốc. Đến thời Thiệu Trị chỉ tổ chức 5 khoa thi Hương (1841,
1842, 1843, 1846, 1837) và bắt đầu lấy hạn chế số lượng Cử nhân. Khoa thi năm
Tân Sửu (1841) định số Cử nhân lấy đậu ở các trường: Trường Thừa Thiên 38
người, trường Nghệ 25 người, trường Hà Nội 23 người, trường Nam Định 21 người,
trường Gia Định 16 người. Kế tiếp Thiệu Trị, Tự Đức tổ chức 17 khoa thi hương
nhưng hạn chế số lượng Tú tài. Cụ thể như kỳ thi hương năm Canh Tuất (1850)
trường Thanh Hóa lấy đậu 50 người, Thừa Thiên 20 người, Gia Định 13 người, Nam Định
20 người, Nghệ An năm 18 người, Hà Nội 20 người[2].
Việc hạn chế Cử nhân và Tú tài ở thời Thiệu Trị đều xuất phát từ yêu cầu bổ
sung quan lại ch các địa phương.
Hình
thức, quy trình tổ chức thi cũng được hoàn thiện từ đời Minh Mệnh đến đời Tự
Đức. Năm Minh Mệnh thứ 9 (1829) dặt ra các chức quan chánh phó chủ khảo để choc
ho chức đề điệu chỉ chuyên phụ trách việc thu quyển, rọc phách. Năm Minh Mệnh
thứ 15 (1834) đặt thêm chức Khoa đạo và một quan Giám sát để trông bên trong và
bên ngoài trường thi. Để hoạt động khoa cử nền nếp, năm Thiệu Trị thứ 3 (1843)
đã xây dựng trường thicố định làm địa điểm thi Hương, thi Hội (trước đây chỉ
dựng tạm nhà lá rào tre, thi xong đều dỡ bỏ). Trong trường thi có nhà của các
quan Sơ khảo, Giám khảo, Phúc khảo và đều xây tường gạch ngăn cách. Phòng thi
có mái che lợp ngói được xây dựng to nhỏ tùy theo quy mô trường thi[3].
Quá trình chấm bài cũng được qui định rõ ràng. Việc giao nhận, phê chấm bài thi
đều do quan Giám khảo phụ trách. Ban đầu những quyển đã bị quan Sơ khảo loại
thì không cần chuyển đến quan Giám khảo, sau đó năm thiệu Trị thứ bat hay đổi
quy chế này: những quyển bị quan Sơ Khảo loại đều được chuyển cho quan Phúc
khảo xem xét lại. Trường hợp các quan cho điểm chênh lệch từ ba đến bốn điểm
thì các quan chủ khào phải tâu lên vua để định đoạt. Những quan chấm sai đều bị
phạt nặng (như khoa thi Hội năm 1844, quan Đồng khảo chấm bài ở kỳ thứ ba của
Nguyễn Hữu tạo cho dưới 1 điểm, quan Ngoại liêm cho 6 điểm, sau khi xem xét
Nguyễn Hữu Tạo đỗ đồng Tiến sĩ, quan Đồng khảo bị phạt một năm bổng[4].
Sau đời Tự Đức hoạt động khoa cử thưa dần (từ năm 1884 đến năm 1918 có 15 khoa
thi) do sự biến động của tình hình chính trị xã hội.
Giữa
thế kỷ XIX, thực dân Pháp bộc lộ rõ dã tâm xâm lược Việt Nam . Trước âm mưu hành động xâm
lược của thực dân Pháp, các vua nhà Nguyễn đã tìm các biện pháp chống đối rồi
thỏa hiệp và đi đến đầu hàng. Đó là việc
để mất 6 tỉnh Nam Kỳ, cho Pháp đặt Trú sứ Trung Kỳ - Bắc Kỳ và đặc biệt là ký
hai điều ước Harmannd (1883) và Patenote (1884). Tháng 11 năm 1885 triều đình
Đồng Khánh buộc phải treo lá cờ Bảo hộ của thực dân Pháp trên các cơ quan ngoại
giao, lập pháp và hành pháp cao nhất của nhà nước ta Kinh đô Huế (Ty Hành nhân,
Biệb Cơ mật và sáu bộ). Như vậy triều đình Nguyễn đã bị tước hết quyền lực cơ
bản của một nhà nước pgong kiến độc lập. Đặc trong hoàn cảnh đó, việc thực hiện
và duy trì một chế độ khoa cử thống nhất cho cả nước là hết sức khó khăn. Từ
năm 1867 Nam Kỳ đã bị tách khỏi hoạt động thi cử của cả nước. Tháng 7 năm 1866,
trường thi Hà Nội đã bị phá để xây dựng
văn phòng cho cơ quant ay sai cao nhất của Pháp ở Bắc Kỳ là Nha kinh lược Bắc
Kỳ. Vì vậy duy trì khoa cử, hướng tới tìm chỗ dựa cho mô hình chính trị Nho
giáo ở sức mạnh văn hóa, giáo dục truyền thống nên được coi là một cố gắng của
triều Nguyễn. Cũng cần khẳng định đây là một sinh hoạt văn hóa của đất nước,
nâng lịch sử phát triển của triều Nguyễn trở thành một phận không thể tách rời
của văn hóa Việt Nam .
Từ
tháng 5 năm 1886 Tổng Trú Trung kỳ - Bắc kỳ Paul Bert đã cho thành lập Bắc kỳ
Hàn lâm viện nhằm lôi kéo sĩ phu miền Bắc cộng tác, làm việc cho chính quyền
Bảo hộ. Nhà Nguyễn tiếp tục đề cao nền khoa cử Hán học. Ở một khía cạnh nào đó
vấn đề này có ý nghĩa nhất định trong việc đặt nó đối lập với chính quyền bảo
hộ, với sự xác lập, xây dựng hệ thống giáo dục có những mục tiêu, nội dung,
chương trỉnh nhằm đào tạo phục vị cho bộ máy hành chính thuộc địa. chính vì
điều này mà thực dân Pháp thấy rằng chế độ khoa cử Hán học của nhà Nguyễn không
thể giúp Pháp trong việc xây dựng một bộ máy thực dân tay sai để đàn áp phong
trào yêu nước tiến bộ, cai trị, bóc lột nhân dân…nên thực dân Pháp đã buộc Khải
Định chấm dứt hoạt động thi cử vào năm 1818.
Bên
cạnh những ý nghĩa tích cực, chế độ khoa cử triều Nguyễn trong bối cảnh khủng
hoảng suy yếu của chế độ phong kiến, đặc biệt khi bộ máy hành chính sau hiệp
ước Patenotre chỉ còn là vật trang trí cho thể chế bảo hộ của thực dân Pháp,
không còn khả năng để tạo ra một tầng lớp tích cực đối với xã hội. Nói chính
xác hơn, cuối thế kỷ XIX đầu XX triều Nguyễn dù cố gắng duy trì chế độ khoa cử
cũng chỉ tạo ra được một phần Nho sĩ, mà đa số trở nên bất lực hoặc bị tha hóa.
Vì vậy, nó càng không thể đáp ứng được yêu cầu bức thiết mà xã hội đặt ra là
tạo ra một lớp người gánh vác trách nhiệm đưa đất nước thoát khỏi sự thống trị
của thực dân Pháp. Như vậy nội dung tư tưởng của chế độ khoa cử Hán học triều
Nguyễn đã trở nên lỗi thời trước những vấn đề bức xúc của xã hội Việt Nam đương
đại và không còn phù hợp với những người Việt Nam yêu nước đầu thế kỷ XX.
Với
hơn một thế kỷ tồn tại, cũng giống như các vương triều phong kiến trước đó, nhà
Nguyễn đã xây dựng, củng cố quyền lực thống trị của mình dựa trên tư tưởng Nho
học mà chế độ khoa cử Hán học là nền tảng. Dù còn những hạn chế trong nhận thức
để duy trì quá lâu chế độ khoa cử Hán học đã mất dần ý nghĩa tích cực đối với
xã hội nhưng chúng ta cũng nên nhận thấy rằng việc xây dựng, hoàn thiện và duy
trì truyền thống khoa cử Hán học cho đến năm 1818 đã góp phần duy trì truyền
thống văn hóa dân tộc có từ các vương triều trước. Đây cũng là cố gắng cuối
cùng để bảo vệ truyền thống đó và phần nào muốn khẳng định tính độc lập của bộ
máy hành chính, hệ thống chính trị của triều Nguyễn trong khuôn khổ “bảo hộ”.
Mong muốn này của nhà Nguyễn mang tính ảo tưởng và hết sức bi kịch, mà có lẽ nó
bắt nguốn từ ý thức giữ gìn truyền thống dân tộc, đã nảy sinh trong hoàn cảnh
đầy biến động và bi thương của lịch sử Việt Nam trước sự của thực dân Pháp cuối
thế kỷ XIX đầu XX.
No comments:
Post a Comment