Ths. Nguyễn Thị Thanh Hòa[1]
Vấn
đề tính chất phong trào đấu tranh chống triều đình Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX
xủa nhân dân các dân tộc miền núi đã được nhiều người nghiên cứu và có những ý
kiến khác nhau: có nằm trong phạm trù phong trào nông dân hay không?[2],[3]
Theo
chúng tôi, muốn nhận định tính chất của một phong trào xã hội như phong trào
đấu tranh của nhân dân miền núi ở nửa đầu thế kỷ XIX, trước hết cần phải xem
xét phong trào đấu tranh đó xuất phát từ mâu thuẫn chủ yếu nào? Vì vậy, cần làm
sáng tỏ phong trào đấu tranh của nhân dân miền núi nửa đầuthế kỷ XIX xuất phát
từ mâu thuẫn chủ yếu nào? Mâu thuẫn giai cấp hay mâu thuẫn giữa nhân dân miền
núi với chính quyền phong kiến trung ương nhà Nguyễn?
Trên
cơ sở những tài liệu hiện có, kết hợp với việc hệ thống, tổng hợp, đối chiếu
những kết quả nghiên cứu và những nhận xét tương đồng của nhiều nhà nghiên cứu
về tình hình kinh tế - xã hội miền núi Việt Nam trước cách mạng tháng Tám thì
lúc bấy giờ xã hội miền núi nhìn chung đã phân hóa thành hai giai cấp cơ bản:
bóc lột (lang đạo) và bị bóc lột (nhân
dân lao động). “Tuy nhiên sự phân hóa đó chưa sâu sắc như xã hội người Việt” và
sự phân hóa không đều[4]. Đối
với các dân tộc ít người ở Trường Sơn và Tây Nguyên thì tình hình phân hóa giai
cấp còn mờ nhạt hơn “mới chỉ có thể phân biệt thành hai tầng lớp: tầng lớp giàu
có và một tầng lớp nghèo bị áp bức bóc lột”[5].
Tình trạng kinh tế - xã hội của nhân dân miền núi ở nước ta trước cách mạng
tháng Tám 1945 là như vậy, rõ ràng chưa thể xuất hiện mâu thuẫn giai cấp sâu
sắc như ở miền xuôi. Do đó, không thể là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến cuộc đấu
tranh mãnh liệt của nông dân miền núi vào nửa đầu thế kỷ XIX. Bởi vì khởi nghĩa
nông dân chính là biểu hiện của sự đối lập sâu sắc giữa nông dân và địa chủ
trong xã hội phong kiến, là hình thức cao nhất của sự biểu hiện mâu thuẫn giai
cấp chủ yếu trong xã hội phong kiến. Xét cho cùng, chính do sự đối lập căn bản
về lợi ích giai cấp giữa nông dân với giai cấp địa chủ trong kinh tế phong kiến
được phản ánh qua các cuộc đấu tranh chính trị trên cơ sở kinh tế được phản ánh
qua cuộc đấu tranh chính trị trên cơ sở kinh tế phong kiến. Ăngghen đã từng chỉ
rõ “Tất cả những cuộc đấu tranh phát sinh trong lịch sử đều do trình độ phát
triển của tình hình kinh tế, tính chất và phương thức sản xuất cùng tính chất
và phương thức trao đổi quy định”[6].
Vậy
phong trào đấu tranh ở miền núi xuất phát từ mâu thuẫn chủ yếu nào? Phải chăng
là xuất phát từ mâu thuẫn sâu sắc giữa nhân dân miền núi với chính quyền phong
kiến trung ương nhà Nguyễn? Một hiện tượng đáng chú ý là trong lịch sử chế độ
phong kiến Việt Nam
gần một thiên niên kỷ chưa từng có thời kỳ nào mà nhân dân miền núi lại nổi dậy
đấu tranh mãnh liệt,lien tục như dưới triều Nguyễn. Theo thống kê sơ bộ của
chúng tôi, cho thấy:
Thời Lý
(1010 – 1225)
|
Thời Trần
(1225 – 1400)
|
Thời Lê
( 1428 - ?)
|
Thời Nguyễn
(1802 - 1858 )
|
214 năm thống
trị của nhà Lý có tất cả là >17 cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền núi
chống chính quyền trung ương
|
275 năm thống
trị tất cả >113 cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền núi
|
300 năm thống
trị thời Lê có > 307 cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền núi chủ yếu ở thế
kỷ XVIII.
|
Chỉ >50
năm thống trị (tính đến năm 1858) có tới 156 cuộc khởi nghĩa của nhân dân
miền núi chống triều Nguyễn.
|
Với
con số 156 cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền núi nổ ra dưới triều Nguyễn trong
khoảng 50 năm nửa đầu thế kỷ XIX đã nói lên một hiện tượng không bình thường
trong quan hệ giữa nhân dân miền núi với nhà nước phoong kiến Nguyễn. Hiện
tượng xã hội đó là kết quả của mâu thuẫn sâu sắc giữa nhân dân miền núi với
chính quyền trung ương; nó bắt nguồn từ chính sách cai trị hà khắc, bóc lột, áp
bức nặng nề của nhà Nguyễn. Nếu nhìn lại một cách có hệ thống và đối chiếu
chính sách cai trị của các vương triều phong kiến Việt Nam qua các giai đoạn
Lý, Trần, Lê, Nguyễn (ở đây xin không trình bày lại các chính sách đó) ta thấy,
nhà Nguyễn đã thi hành một chính sách đối xử với nhân dân miền núi khác hẳn với
các triều đại trước nó, nhất là từ triều Minh Mệnh (1820 – 1840). Năm 1826, nhà
nước trung ương bắt đầu thi hành chế độ lưu quan, tức là cử quan lại miền xuôi
lên cai trị miền núi. Năm 1829, nhà nước bãi bỏ chế độ thế tập của các thổ ty
miền búi Bắc thành ( từ Thanh Nghệ trở ra), giáng một đòn mạnh vào quyền lợi,
địa vị của tầng lớp thống trị địa phương (tù trưởng, lang đạo). Mâu thuẫn giữa
nhân dân miền núi nói chung, đặc biệt là mâu thuẫn giữa tầng lớp thống trị địa
phương miền núi với chính quyền trung ương Nguyễn bởi thế càng trở nên gay gắt
hơn. Chính vì lẽ đó, các tù trưởng, các dòng họ đời đời nắm quyền thống trị
miền núi đã ráo riết hô hào, tập hợp nhân dân địa phương nổi dậy.Mấy số liệu
sau đây phản ánh phần nào minh định điều nói trên. Trong số 156 cuộc khởi nghĩa
của nhân dân miền núi nửa đầu thế kỷ XIX đã có tới 77 cuộc nổ ra vào thời Minh
Mệnh. Năm 1826, tức là năm bắt đầu thi hành chính sách lưu quan đã có tới 5
cuộc nổi dậy ở miền núi. Số cuộc nổi dậy của nhân dân miền núi phía Bắc cũng
nhiều hơn hai lần so với các cuộc nổi dậy của nhân dân miền núi dọc Trường Sơn
và Tây Nguyên (110 cuộc 156).
Đôi
điều phác họa trên đây cho thấy xuất phát từ mâu thuẫn sâu sắc giữa nhân dân
miền núi với chính quyền phong kiến trung ương chuyên chế cực đoan Nguyễn đã
dẫn đến sự bùng nổ và phát triển mạnh mẽ phong trào đấu tranh chống nhà Nguyễn
của nhân dân miền núi nước ta nửa đầu thế kỷ XIX – hoàn toàn không phải bắt
nguồn chủ yếu từ mâu thuẫn giai cấp sâu sắc giữa nông dân lao động với giai cấp
địa chủ phong kiến trong xã hội miền núi như ở đồng bằng.
Nhìn
vào thực tiễn của phong trào,chúng ta còn thấy mục tiêu đấu tranh của nó không
phải nhằn vào giai cấp địa chủ phong kiến và tầng lớp thống trị người địa
phương (tù trưởng, lang đạo…), Trong toàn bộ phong trào với 156 cuộc khởi nghĩa
nói chung, đặc biệt ở những cuộc khởi nghĩa có quy mô to lớn và tiêu biểu như
cuộc khởi nghĩa của Quách Tất Thúc (1808 – 1819), Quách Công Tiến, Nông Văn Vân
(1833 – 1834) diễn biến của cuộc đấu tranh không hề có hiện tượng nghĩa quân
tấn công vào tầng lớp trên ở miền núi, như tù trưởng, lang đạo, không có hiện
tượng “lấy của nhà giàu chia cho dân đói” như ở miền xuôi cùng thời. Ở đây,chỉ
có những hoạt động của nghĩa quân tấn công, bao vây, tiêu diệt các đồn, trại,
hạ thành, bắt, giết các viên quan do chính quyền trung ương cử đến thay mặt nhà
nước Nguyễn cai trị địa phương (xin không minh họa hiện tượng nói ở đây vì đã
được sử sách ghi chép nhiều và thống nhất hiện tượng được nêu).
-
Tính chất chống chính quyền chuyên chế trung ương Nguyễn của phong trào còn
được thể hiện khá rõ nét ở thành phần và lực lượng tham gia lãnh đạo phong trào
hầu hết thuộc tầng lớp trên của xã hội miền núi đương thời (tù trưởng hoặc các
thế tộc dòng họ quý tộc miền núi, chẳng hạn như các dòng họ Quách, Đinh, Hoàng
trong dân tộc Mường, họ Cầm, họ Đèo, họ Xa trong dân tộc Thái, họ Ma trong dân
tộc Tây Nguyên…)
-
Không thể căn cứ vào hiện tượng đấu tranh giữa một số thủ lĩnh miền xuôi với
thủ lĩnh phong trào đấu tranh của nhân dân miền núi để nói rằng giữa hai phong
trào đó có cùng một mục tiêu đấu tranh chống chế độ phong kiến phản động triều
Nguyễn là đương nhiên có cùng một tính chất giai cấp. Một số người đã lập luận
rằng, phong trào đấu tranh của nhân dân miền núi mang tính chất đấu tranh giai
cấp bởi lẽ phong trào đó tấn công mạnh mẽ vào nhà Nguyễn – một tập đoàn phong
kiến địa chủ lớn nhất, đại biểu cho lợi ích của giai cấp địa chủ cả nước áp bức
bóc lột nhân dân. Nếu vậy thì bất cứ một cuộc nổi dậy nào trong xã hội bấy giờ
chống triều Nguyễn như các cuộc binh biến, bạo động của Lê Văn Khôi và những
hiện tượng mà sử củ gọi là trộm cướp cũng là những cuộc đấu tranh giai cấp nông
dân chống giai cấp địa chủ phong kiến hay sao? Còn hiện tượng lien kết đấu
tranh giữa phong trào miền xuôi với miền núi, xét cho cùng, là sự lien kết đấu
tranh chứ không phải là hiện tượng phổ biến của toàn bộ phong trào. Mặt khác ở
một số ít cuộc đấu tranh có sự phối hợp nhưng chỉ diễn ra nhất thời vào thời kỳ
thoái trào của một cuộc khởi nghĩa ở miền xuôi, người cầm đầu hoặc các tù trưởng
nào đó chạy lên miền núi nhở sự che chở, giúp đỡ quân lương để thoát khỏi sự
truy lung của nhà nước Nguyễn, nhưng kết cục đã nhanh chóng bị đàn áp như sự
phối hợp giữa Dương Đình Cúc, Vũ Đình Phục với Quách Tất Thúc là một thí dụ của
tình hình trên.
Chúng
tôi cho rằng không thể xếp phong trào đấu tranh chống triều Nguyễn nửa đầu thế
kỷ XIX của nhân dân miền núi vào phạm trù phong trào nông dân và khởi nghĩa
nông dân vì nó thuộc một phạm trù và tính chất khác – đó là phong trào của nhân
dân miền núi dưới sự lãnh đạo của tầng lớp thống trị ngườ địa phương (tù
trưởng, lang đạo…) chống lại chính quyền trung ương chuyên chế nhà Nguyễn nhằm
duy trì quyền lợi vốn có của mình khỏi sự áp chế, bóc lột của nhà Nguyễn.
[1] Khoa sử,
ĐHSP Quy Nhơn
[2] Lịch sử
chế độ phong kiến Việt Nam
– Tập III của Phan Huy Lê, Chu Thiên, Vương Hoàng Tuyên. Đánh giá phong trào nông dân nửa đầu thế kỷ XIX, NCLS số 61 (1964). Bước
đầu tìm hiểu tình hình đấu tranh giai
cấp thời Gia Long, NCLS số 78 (1965).
[3] Những
vấn đề đặt ra và giải quyết trong phong trào nông dân Việt Nam nửa đầu thế kỷ
XIX – Nguyễn Phan Quang, Thông báo sử học, ĐHSP Hà Nội 1 năm 1993. Phong trào
nông dân Việt Nam
nửa đầu thế kỷ XIX, NXB KHXH, 1986 của Nguyễn Phan Quang.
[4] Các dân
tộc ít người miền Bắc, NXB KHXH Hà Nội, 1978, tr. 79
[5] Các dân
tộc ít người miền Bắc, NXB KHXH Hà Nội, 1984, tr. 212
[6] Mác, Ph.
Ăngghen, Tuyển tập, tập 1, quyển 2, NXB Sự thật, Hà Nội, 1992, tr. 232.
No comments:
Post a Comment