Monday, May 2, 2016

HÀ HUY TẬP (1902 – 1941)


Nhà hoạt động chính trị, Tổng Bí thư Đảng Cộng Sản Đông Dương (1935 – 1938), bút danh Thanh Hương, bí danh Xinhitxkin, sinh ra trong một gia đình nhà nho ở làng Kim Nặc, Tổng Thổ Ngọa, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh (Cẩm Hưng, Cẩm Xuyên, Nghệ Tĩnh). Lúc nhỏ, ông được cha mẹ dạy chữ nho, đến năm 16 tuổi học chữ quốc ngữ. Sau đó vào học Trường Quốc học Huế, năm 1923 ra trường, ông về dạy học ở Nha Trang, sau đó là trường Cao Xuân Dục tại Vinh. Ông là người cương trực, thẳng thắn, hay bênh vực những người bị áp bức. Đầu năm 1926 Hà Huy Tập tham gia Đảng Tân Việt (lúc đó lấy tên là Phục Việt), và chính ông là người viết đơn gửi Toàn quyền Đông Dương xin xóa án cho Phan Bội Châu*. Tháng 3.1927 trong lễ truy điệu Phan Chu Trinh* do Phục Việt tổ chức tại Vinh, ông đứng lên diễn thuyết, kêu gọi nhân dân đấu tranh. Năm 1927 ông vào Sài Gòn hoạt động, cùng một số người tổ chức ra kỳ bộ Tân Việt ở Nam kỳ với tên gọi là Hưng Nam. Tháng 12.1928 Hà Huy Tập cùng một số đồng chí của ông sang Quảng Châu (Trung Quốc) để liên lạc với Tổng bộ Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội. Năm 1929, ông được cử sang học tại Trường Đại học Phương Đông ở Moskve (Liên Xô). Sau 4 năm học tập, tốt nghiệp hạng ưu, ông được cử về nước hoạt động. Năm 1934, ông cùng với Lê Hồng Phong* lập Ban lãnh đạo hải ngoại của Đảng Cộng Sản Đông Dương tại Trung Quốc, làm nhiệm vụ chắp nối, xây dựng lại cơ sở của Đảng ở Việt Nam. Tại Đại hội toàn quốc của Đảng lần thứ nhất hợp ở Ma Cao (Trung Quốc) ông được cử làm Tổng Bí Thư. Sau Hội nghị lần thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Thượng Hải (7.1936) Hà Huy Tập về nước hoạt động. Ông vào Sài Gòn, trực tiếp lãnh đạo cách mạng mà tiêu biểu là cuộc đấu tranh chống những người Trotskiste. Với bút danh Thanh Hương ông viết cuốn “Tờ-rốt-kít và phản cách mạng” cùng nhiều bài báo trên các bào Sài Gòn, với bút danh Hồng Qui Vít. Tháng 5.1938 ông bị thực dân Pháp bắt tại Sài Gòn, bị kêu án mấy tháng tù rồi bị quản thúc tại quê. Cuối tháng 3.1940 Pháp lại đưa ông vào Sài Gòn xử thêm 5 năm tù. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ nổ ra, ngày 25.3.1941 tòa án thực dân đưa ông cùng một số lãnh đạo khác của Đảng như Nguyễn Văn Cừ*, Nguyễn Thị Minh Khai* ra xử với mức án tử hình với lời buộc tội “chịu trách nhiệm về mặt tinh thần của cuộc làm rối loạn trị an ở Đông Dương” mặc dù thiếu chứng cớ. Ngày 28.8.1941, thực dân Pháp đã đưa ông cùng với Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn Tần, Nguyễn Hữu Tiến ra bắn tại gò Bằng Lăng, Hóc Môn, Gia Định. Trước khi chết ông cùng các đồng chí còn hô vang: “Đả đảo đế quốc Pháp! Đảng Cộng Sản Đông Dương muôn năm!”

V.H.L.

No comments:

Post a Comment