Tuesday, May 17, 2016

HOÀNG CAO KHẢI (1850-1933)


Quan triều Nguyễn, người cộng tác đắc lực cho thực dân Pháp đàn áp các cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy và Yên Thế, trước tên là Hoàng Văn Khai, tự Đông Minh, thiệu Thái Xuyên, quê làng Đông Thái, huyện La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh (Đức Thọ, Nghệ Tĩnh). Năm 1868, Khải đậu cử nhân được bổ làm quan tại Huế, sau ra làm Giáo thụ ở Hoài Đức, Hà Đông (Hà Nội). Đến khi Bắc kỳ trở thành xứ bảo hộ của Pháp (1884), Hoàng Cao Khải được bổ làm Bố chánh sứ quyền Tuần phủ Hưng Yên. Lúc này cuộc khởi nghĩa ở Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuật* lãnh đạo đã nổ ra, Hoàng Cao Khải được người Pháp giao cho chỉ huy một đạo quân tấn công vào Bãi Sậy nhưng bị nghĩa quân từ trong địa hình đầy lau sậy bắn ra, khiến lính bị chết nhiều, Khải phải rút về phủ lị Khoái Châu. Sau Hoàng Cao Khải dung kế khác: một mặt ra sức khủng bố nhân dân trong vùng để ly gián với nghĩa quân, mặt khác cho quân tăng cường đánh phá ác liệt căn cứ nghĩa quân bằng cách đốt cháy cả vùng lau sậy ở đây. Cuộc khởi nghĩa phải lắng xuống. Nhưng sau đó nghĩa quân Bãi Sậy lại phát triển và hoạt động rộng sang cả tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương. Năm 1887, Hoàng Cao Khải được thăng Tổng đốc Hưng Yên kiêm Tiễu phỉ sứ ba tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, lại phối hợp với quân Pháp đàn áp nghĩa quân Bãi Sậy. Khải cho kỳ hào, chức dịch, lính ở các địa phương được trang bị vũ khí. Đối với nhân dân và kỳ hào có cảm tình với nghĩa quân Khải dùng cách dụ dỗ, nếu không được cho quân thẳng tay đàn áp, làng nào giúp đỡ nghĩa quân đều bị triệt hạ hoàn toàn. Năm 1888, Khải cùng đồn trường người Pháp là Louis Ney đem 100 lính xuống gặt lúa của nghĩa quân ở Liêu Trung (Yên Mỹ, Hưng Yên), bị lọt vào trận địa phục kích, Khải suýt bị nghĩa quân bắt sống. Sau trận này, Khải cho triệt hạ 28 làng trong vùng để trả thù. Tháng 71889, khi đàn áp cuộc khởi nghĩa do Đốc Tích lãnh đạo, để thực hiện việc ly gián nghĩa quân với nhân dân, Khải cho quân đốt phá 50 làng ở vùng Hai Sông, bắt dân ở đây tản cư sang vùng khác, nếu ai ở lại thì ghép vào tội giúp nghĩa quân để thẳng tay trừng trị. Khải còn nhân danh triều đình viết chiếu khuyên Nguyễn Thiện Thuật ra hang và sẽ khôi phục chức tước cho ông, nhưng Nguyễn Thiện Thuật viết thẳng vào tờ chiếu dụ hang bốn chữ “bất khẳng thu chỉ” (không chịu nhận chỉ). Năm 1890 Hoàng Cao Khải lại được giữ chức Bắc kỳ Kinh lược sứ, tước Duyên mậu quận công. Từ 1890-1892 ở chức vụ mới này Khải cùng viên chỉ huy người Pháp Muselier lại đem quân đàn áp cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, lúc này do Nguyễn Thiện Kế chỉ huy. Năm 1894, Hoàng Cao Khải theo lệnh của Toàn quyền De Lanessan viết thư dụ Phan Đình Phùng ra hàng, nhưng không được.
Khải muốn tỏ ra mình là người hay thơ nên thường tổ chức các cuộc ngâm vịnh. Người ta kể rằng Khải nhiều lần bị cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến* làm cho bẽ mặt. Một lần, khi làm Bắc kỳ Kinh lược sứ, nhân có con trai đậu tú tài ở Pháp về, Khải bày tiệc ăn mùng, mở cuộc ngâm vịnh lấy câu “Thiên hà ngôn tai” làm đề, với ngầm ý khoe vận hội tước lộc nhà mình do tự ý trời, dù trời chẳng nói. Nguyễn Khuyến làm một bài thơ mỉa:
“Chót vót trên này có một tao
Mày xem tao có nói đâu nào
Da tao xanh ngặt pha đen trắng
Bởi tại dì Oa vá váy vào”
Năm 1897, Pháp bãi Nha Kinh lược, Hoàng Cao Khải vào Huế làm Phụ chính Đại thần. Một thời gian sau, Khải về hưu, sống ở ấp Thái Hà (Hà Nội). Khải biên soạn một số sách như Gương sử Nam, Tây Nam đắc bằng để phân trần những việc làm của mình trước đây. Hoàng Cao Khải còn soạn một số sách về giáo dục có tư tưởng phong kiến như Làm con phải hiếu, Đàn bà nước Nam. Lúc cuối đời Hoàng Cao Khải còn cho đổi tên Đền Trung Liệt ở ấp Thái Hà, nơi thờ các anh hùng liệt sĩ như Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Cao thành đền Trung Lương, với hàm ý đền này thờ cả trung thần lẫn lương tướng, để Khải sau này cũng được đưa vào đó thờ phụng. Về việc này, Phan Điện, một nhà thơ có tiếng ngạo đời lúc đó ở Hà Thành đã làm bài thơ Đề đền Trung Liệt:
“Các cụ liều thân bỏ chiến trường
Ai đem Trung Liệt đổi Trung Lương?
Thờ bên trung trực bên gian nịnh
Thế cũng đền đài cũng khói hương:
Thơm thối lẫn nhau mùi tắc họng
Ngọt ngào đầu miệng lưỡi không xương
Nhà nho lại có thằng nào đó?
Luồn cúi ra vào bợ cụ Hoàng!”
Năm 1933, Hoàng Cao Khải chết tại ấp Thái Hòa (Hà Nội).

V.H.L.

No comments:

Post a Comment