Thursday, May 12, 2016

MỘT SỐ CHÍNH SÁCH CỦA NGUYỄN ÁNH – GIA LONG Ở PHÚ XUÂN ĐỐI VỚI TRIỀU TÂY SƠN TỪ 13 – 6 – 1801 ĐẾN 01 – 12 – 1802



Huỳnh Đình Kếtß

Sau khi chiếm Phú Xuân (13 – 6 – 18010, Nguyễn Ánh tập trung thi hành chính sách chiêu an, thảo phạt và trừng trị đối với thảo dân, sĩ tốt, quan lại và hoàng than quốc thích nhà Tây Sôn, với nhiều mức độ khác nhau, từ tha bổng đến trừng trị bằng cách bêu đầu, xé xác…
1. Chiêu An
Nhằm nêu chính danh ngôn thuận khôi phục vương triều Nguyễn, nhanh chóng ổn định tình hình, củng cố lực lượng, tăng cường sức mạnh tại chỗ, đưa người dân thuộc triều cũ trở thành người dân của vương triều mới, ngay sau khi vào thành, Nguyễn Ánh đã lập tức: “niêm phong kho tàng, tịch biên của cải vật phẩm, cấm cướp bóc quấy nhiễu, cho dân cư được yên”[2].
Một trong những việc được tiến hành khẩn trương dứt khoát là nhanh chóng sử dụng đội ngũ binh lính, quan lại cùng chỉ huy các cấp vào công việc quân sự trị an dưới sự quản lý chặt chẽ, có hiệu quả của bộ khung quan tướng nhà Nguyễn Tây Sơn.
1.1 Biên bổ các tù binh, hàng binh vào quân đội, sai phái di đánh trận.
Từ sau khi chiến dịch đánh chiếm Phú Xuân thành công, quân Nguyễn lien tục thắng trên các mặt trận, binh lính Tây Sơn tan rã tại chỗ rất nhiều. Vì vậy, Nguyễn Ánh đã nhanh chóng cho tù hành binh Tây Sơn gia nhập hàng ngũ quân đội triều Nguyễn, dưới sự kiểm soát chặt chẽ của quan tướng quân Nguyễn trờ lại đánh phá quân Tây Sơn như: “biên bổ tân binh và hàng binh ở Thuận Hóa làm năm vệ Thiện Võ, Kham Võ, Trang Võ, Túc Uy và Kiệu Uy của trung quân”[3] hoặc “1000 binh Thuận Hóa và Bắc Hà bị bắt thì cho họ phân lệ vào quân ngũ, thẳng tiến đi Quảng Nam đánh giặc”[4]; “quân bọn Tống Viết Phước, Lê văn Duyệt và lê Chất đến Quảng Ngãi, đánh bắt được đảng giặc là bọn Nguyễn Văn Khôn, Hồ Văn Tự ở biển Trà Khúc bắt được quân giặc hơn 3000 người,… cho giải bọn tướng giặc là Khôn và Tự về kinh, còn binh lính bị giặc bắt thì chia lệ vào các vệ để thêm quân số”[5]. Nguyễn Ánh còn sai ba đội Tả Vệ, Hữu Vệ, Hoàng Kiếm đi Quảng Nam theo Trần Văn Trạc giữ đảo Kim Bồng. Khi thấy số quân 3 đội hơi ít, ông còn dụ cho Văn Trạc kén hàng binh Thuận Hóa và Bắc Hà những người tinh tráng để bổ thêm vào cho mỗi đội đủ số 120 người hoặc 150 người”[6], “lien bổ tù binh ở Quy Nhơn làm bốn vệ Quang Uy, Minh Uy, Nhuệ Uy và Tinh Uy”[7], chia bổ sáu vệ quân mới hàng là Chánh Võ Nhất, Chánh Võ Nhị, Thanh Võ, Tường Võ, Trinh Võ lệ vào tả đồn quân Ngự Lâm”[8]. “Năm Tân Dậu, năm thứ 22 (1801) mùa thu, tháng 8 bổ quân mới hàng ở Bình Định làm vệ Trấn võ tiền quân”[9]`, “những người ở xa mới đến theo và các hàng tướng có danh sắc thì đặt riêng làm Nghĩa Dũng đoàn”[10] và “Sai các dinh thần Quảng Đức, Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi chiêu tập tàn quân của giặc Tây Sơn và mộ dân ngoại tịch để lập làm quân của dinh”[11]
Với việc làm trên, Nguyễn Ánh đã nhanh chóng ổn định tình hình, xử lý kịp thời lực lượng tàn quân của đối phương, vừa tăng cường sô lượng quân Nguyễn, cùa làm suy sụp quân Tây Sơn, chủ động triển khai chiến dịch đánh đổ triều Cảnh Thịnh.
1.2. Lưu dung, giao việc và tha bổng cho quan lạ, tướng sĩ Tây Sơn, bị bắt hoặc ra hàng.
Sau khi đánh chiếm Phú Xuân, một số quan lại tướng sĩ Tây Sơn dang ở kinh thành đến trình diệ, Nguyễn Ánh đã tiếp tục sử dụng, như: “Nội hầu giặc là Lê Văn Lợi, thiếu úy Văn Tiến Thể, Phụng Chính Trung thư Trần Văn Kỷ, thượng thư Lại bộ Hồ Công Diệu và quan văn thì bọn thị lang phụng nghi, quan võ thì bọn đô đốc đô ty, đua nhau đến quy thuận. Vua thấy đại thể mới định, sử dụng còn thiếu người bèn cho sai phái”[12] “lấy cựu đô đốc Nguyễn văn Xuân làm Úy vệ toàn võ tả dinh quân thần sách”[13] “Đại đô đốc giặc Lê Đình Chính đem hơn 70 người quân cơ thủng thẳng đến quân thứ Thanh Hảo đầu hàng. n Duyệt sai đóng gông giải về kinh, vua tha tội”[14] n Duyệt đâng sớ nói bọn ngụy tri huyện ba huyện Bình Sơn, Khương Nghĩa, Mộ Hoa thuộc Quảng Ngãi đem nhau đến quân thứ hàng, xin theo họ giữ chức như cũ. Vua chuẩn y lời tâu”[15]. “ n Duyệt bắt được Đại dô đốc giặc là Trần Đại Cửu giải về kinh. Vua tha”[16]. “Vua ra lệnh thả bộ hạ của Cao-La-Hàn-Sâm về nước, cho 30 lạng vàng, 300 lạng bạc, 3.000 quan tiền. Trước kia Sâm đi theo đánh giặc, ngầm gửi thư cho tướng giặc là Trần Quang Diệu, vua bắt được, để đấy mà cấp cho thêm hậu, để cho yên lòng. Đến đây yên ủi cho về”[17]. “Vua thấy nước mới yên định, sổ sách tản mát, tô dung thuế khóa chưa có định chuẩn, nghe Tư mã giặc là Nguyễn Văn Dạng từng coi việc hộ, bèn sai tường kê các ngạch thuế, do bộ Hộ tâu lên từng điều để tham trước thi hành”[18]. “Trấn thủ Yên Quảng là Nguyễn Hữu đạo bắt được tư lệ giặc là Đinh Công Tuyết ở châu Vân Đôn, đóng cũi đưa về nhà trạm. Tuyết là tôi yêu của Tây Sơn. Vua cho là tướng giặc vô danh nên không nỡ giết mà tha cho”[19].
Chính sách này đã làm cho một số tướng sĩ dưới trướng lo ngại, dâng một biểu can gián và Gia Long đã nói rõ rằng: Bọn khanh trình bày, cố nhiên là có ý phòng ngừa từ trước, nhưng từ khi ta lấy lại Phú Xuân, bọn tướng giặc đều hàng có, bắt được cũng có, ta đều tùy nghi xếp đặt, quân của chúng cho xen lẫn với quân ta, dưới quyền ta cai quản. Bọn chúng bất quá cai quản năm ba tên thuộc binh mà lệ theo súy phủ, phỏng có mang lòng phản trắc cũng không thi hành vào đâu. Bọn khanh ở quân thứ xa, chưa rõ sự cơ nên đặt dụ cho biết”[20].
Chính sách chiêu an, chiêu hàng của Nguyễn Ánh đối với tướng lĩnh Tây Sơn rất rõ ràng, luôn luôn ở thế chủ động, như trường hợp đại đô đốc đạo tả bật Lê Doanh Phong đem hơn 300 quân cơ Thiên cán đến quân thứ Thanh Hảo đầu hàng, vua sai dẫn về kinh bái yết. Nguyễn Đức Xuyên sinh lòng nghi ngờ, dâng mật sớ: “Phong đối với giặc rất thân tín, cũng như thần cùng Nguyễn Văn Thành đối với nước vậy. Thành với thần không phản thì Phong về với ta chưa chắc đã thành thực…việc dùng người không phải là nhỏ, xin chú ý cho”, Nguyễn Ánh đã trả lời rằng: “Lòng trung ái của ngươi ta đã rõ rồi. Phong không đủ tin, ta đã có cách ngăn ngừa”[21].
Tuy nhiên, Nguyễn Ánh cũng không quên nhắc các tướng thần cần phải lưu ý việc sử dụng hàng tướng Tây Sơn. Đại đô đốc đạo Tả bật Nguyễn Văn Xuân ra hàng được giao cho Lê Văn Duyệt sai phái với mật dụ rằng: “lòng người thật khó lường, khó hơn lường việc trời. Từ khi ta dấy quân khôi phục đến nay, những hàng tướng giặc ta đều suy lòng đặt dạ, lấy thành tín đãi họ, nhưng bọn họ ít người lấy thành thực để thờ. Nay Nguyễn Văn Xuân theo quân thứ của khanh, nên cẩn thận đề phòng xem xét ý tứ, Phàm đối với bọn hàng tướng đều như thế, chẳng một người này mà thôi. Nên cẩn thận”[22]
1.3. Nghiêm cấm việc giết hại bừa bãi, ban bố các chính sách an dân.
Sau khi đành chiếm Phú Xuân tháng 5 năm Tân DẬu (6 – 1801) Nguyễn Ánh được biết trong các dinh quân có nhiều kẻ hống hách, gây xôn xao, bất ổn trong đời sống xã hội, bèn ban sác chỉ: “Phàm quan quân giặc đã quy thuận, hoặc còn ở Quy Nhơn hay Bắc Thành, thì nhà cửa vườn tược của họ phải để cho vợ con họ hàng ở, không được lấn cướp. Ruộng vườn cây cối của dân thì không được đẵn chặt. Làm trái thì xử theo quân pháp”[23]. Gia Long lưu ý giảm nhẹ “thu thuế năm nay (Tân Dậu – 1801) cho các sách Man ở nguồn Đồng Hương dinh Bình Khang”[24], khi “Quảng Binh mưa lụt, lũy Trấn Ninh bị lở mất nhiều, Nguyễn n Trinh sai dân trong huyện ba hạt sửa đắp. Vua thấy việc nông đang bận, sợ hại tối việc làm ăn của dân, hạ lệnh thu dân về mà lấy lính làm thay”[25]. “Việc canh phong cẩn mật: vua thấy quân dân ở các dinh bận rộn, có nhiều kẻ giả mạo chức vị, lẻn đi cướp bóc, bèn sác cho các dinh thần Quảng Đức, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Bình, Quảng Ngãi đều ra lệnh cho các tổng xã thôn ấp trong hạt phải thiết lập điểm canh, tuần phòng nghiêm ngặt, có nơi nào xảy ra việc cướp thì sở tại và láng giềng phải đem nhau đến cứu, hợp sức vây bắt, bắt được từ một người trở lên thì thưởng 100 quan, nếu không đến cứu thì trị tội nặng. Đến như quân nhân trong ngoài được sai đến thì phải có trát cấp, không thì bắt trị tội”[26]. Nhà vua còn cho hoãn nợ tư ở Quảng Ngãi và Quảng Nam, vì: “giúp người củng thương kẻ thiếu và việc đầu tiên của nhân chính…”[27]
Tháng 10 năm Tân Dậu (1801), Nguyễn Ánh lo sợ các tướng sĩ lâm trận chém giết bừa bãi, đã ban dụ răn cấm: “Trừ cỏ xấu, cốt để nuôi cho lúa tốt; giết kẻ ác, cốt để cứu giúp dân lành…nay chúng nó lại thải bỏ người già yếu, chọn lấy người trai tráng, dồn những người vô tội ấy vào chỗ mũi giáo đầu gươm, đó là cái thế không làm sao được, tình hình cũng đáng thương. Cho đến những kẻ a tòng cũng đều là con đỏ của triều đình cả, bậc chí nhân không bỏ ai ở ngoài, sao lại đòi hỏi quá nghiêt! Vậy ra lệnh từ nay phàm khi đối trận chém giết thì không kể, còn bắt được người tại trận, không kể người Thuận Hóa, Bắc Hà, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, đều được thưởng như nhau, bất tất phân biệt, người từ Quảng Ngãi trở ra Bắc thì cho lưu lại để thu dùng, người từ Quy Nhơn trở vào thì cấp cho tiền gạo rồi rồi thả về. Đó thực là đánh bằng nghĩa mà dạy bằng nhân vậy. Ta đã đinh ninh dặn bảo, nếu cố ý trái lịnh giết càn thì tức là hạng quân khiêu căng giận dữ, do lòng tàn nhẫn, đều chiếu theo quân pháp trị tội”[28]
Lại dụ quân đánh thành Bình Định không được thả sức chém giết cướp bóc dân lành: “Quân của vương giữ đánh giặc chỉ cần yên dân. Trong khi lâm trận nhằm bắt được quân giặc đừng nên giết bừa. Vả đất Bình Định từ khi có việc binh pháp đến nay đã bị tàn tệ rất nhiều. Nên răn cấm quân nhân không được cướp bóc, để cho nhân dân đều được yên ổn làm ăn”[29].
Ngoài ra còn có những chính sách về thuế khóa, ruộng đất như: “Miễn thuế cửa biển năm nay (Nhâm Tuất, 1802) cho thuyền buôn ngoại quốc. Cấm quan quân không được mua rẻ hóa vật. Hạ lệnh cho các dinh Quảng Đức, Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, phàm ruộng đất công điền ngụ lộc vẫn theo lệ cũ, đợi khi đại định sẽ bàn định để ban hành”[30].
Sau khi định niên hiệu Gia Long vào ngày 2 tháng 5 năm Nhâm Tuất 1802 (01-06-1802) vua ban chiếu đại xá, giảm thuế: “1 -  Những số tiền thóc thuế nhà nước còn lưu khiếu ở dan từ thang 112 năm Tân Dậu trở về trước đều tha cả. 2 – Lệnh xá đến ngày nào thì số tiền thóc nhà nước các nha đều thiếu đều tha cả. 3 – Những tù hiện đương bị giam, không kể đã xử án hay chưa xử án, đều được tha hết, duy kẻ giết người và kẻ đầu đảng kẻ cướp thì không tha. 4 – Phàm số tiền thuế sai dư của các dân chính hộ, khách hộ, biệt nạp và các sắc thuộc quân, từ năm Quí Hợi trở về sau, thì cho giảm hai phần mười. 5 – 6 - : Các hạng thóc đồn điền, lĩnh háng, lĩnh thâm, dầu rái, than gỗ, sáp ong, vải trắng, dầu lạc, nhựa trám, buồm lá và hết thảy các thứ thuế vặt, từ năm Quý Hợi trở về sau đều được giảm hai phần mười”[31].
Gia Long còn định lệ cấp ruộng lương và ruộng khẩu phần cho quan quân dinh Quảng Đức: “ Phàm quan quân theo việc binh thì mỗi người cấp 1 mẫu ruộng lương, ruộng khẩu phần thì theo lệ. Ai bị thương về quê cũng được cấp như thế. Ai bị chết trận hay chết bệnh thì cho vợ con cấy ăn một năm. Quan quân giặc quy thuận đã có sắc thị thì cũng được cấp như quan quân, chưa có sắc thị thì coi như hàng dân, bị bệnh thải về coi như hạng lão, ngoài ra ruộng lương của quan quân ngụy thì trả lại dân, người bị bệnh về quê thì được cấp theo hạng tàn tật”[32].
Đồng thời truyền hịch đối với quân dân Bắc Hà và ban dụ định rõ quân chính trước như cử binh tiến đánh quan quân Cảnh thịnh, gồm một số điều mục thể hiện chính sách chiêu dụ, chiêu an binh dân Tây Sơn như: “Người ở Thuận Quảng đều là con đỏ của triều đình, giặc Tây Sơn hiếp bách xua đi thú miền Bắc, họ trốn ở chỗ nào sở tại đều nên cho ở và nuôi tử tế, dẫn đến nộp ở trước quân, sẽ lượng gia thưởng. Nếu lại oán mối thảm sát năm Bính Ngọ (1786), bị giặc giết ở thành Phú Xuân mà cứ tự tiện giết hay đánh bị thương , và nếu ẩn giấu không giải nộp thì đều xử theo tội nặng (hịch dụ dân quân Bắc Hà)”; hoặc: “Bọn đầu hàng giặc và bị bắt sống trước phải gạn hỏi tình hình hư thực của giặc rồi mới giải đến hành tại chồ lệnh chờ lệnh không được tùy tiện bổ vào quân mình, để khỏi lỡ việc” (Tám điều quân chính) và “những sổ sách lương tiền có ai thu giữ cẩn thận, đợi khi xong việc đem nộp thì tất có trọng thưởng. Nếu dám đốt phá cướp bóc là phạm quân pháp” (Hịch dụ dân quân Bắc Hà); kho  tàng sách vở không được đốt cướp, nếu có thu được giấy tờ của giặc về việc quan trọng thì do thống tướng tín lãm, sẽ lượng gia thưởng (Tám điều quân chính)[33] đồng thời có biện pháp cứng rắn trong lúc hành quân, như: “Ngày Canh Dần (21-5 Nhâm Tuất, 20-06-1802) xa giá phát tự kinh sư. Hoàng tử thứ tư đi theo. Ngày Nhâm Thìn (23-06-1802) xa giá đến An Lạc (tên đất thuộc Quảng Trị) tôn tứ ở đội Nội hầu nạt bắt dân đệ trạm, vua nghe tin, lập tức đem chém để rao”[34].
Sau khi đánh tan quân Cảnh Thịnh ở Bắc Hà, Gia Long cho miễn thuế vụ hạ (Nhâm Tuất – 1802) cho Bắc thành, Nghệ An và Thanh Hóa ngoại trấn. Vua cho rằng võ công mới định, nhân dân chưa được lại hơi, nên đặc biệt xuống lệnh thu thuế vụ hạ. Người nào đã nộp rồi thì đến mùa đông sẽ trừ. Duy huyện Chí Linh trấn Hải Dương bị tàn tệ quá nhiều nên thuế vụ đông cũng được miễn…và thu thuế quan tôn năm nay cho trấn Lạng Sơn, còn những thuế sản vật thì định mỗi năm chia làm bốn quý để nộp[35].
2. Thảo phạt, tận pháp trừng trị
Việc chiến tranh lấy quân sự làm chính, do vậy tiêu diệt sinh lực đối phương, trấn áp xóa bỏ bộ máy cai trị của các cấp của lực lượng đối địch luôn luôn được người cầm quân quan tâm khai thác triệt để. Chính vì vậy mà Nguyễn Ánh – Gia Long đã nhất quán thi hành, áp dụng chính sách “tận pháp trừng trị” (trừng trị hết phép). Việc chọn thời điểm và hình thức xử tử hàng bi là quan lại đầu triều hoặc chỉ huy quân Tây Sơn đều được tính toán, khao thác cái chết của quân đối địch nhằm phục vụ mục đích cuối cùng là đánh đổ nhà Tây Sơn, xác lập vương triều Nguyễn, như: “Tháng 10, Tân Dậu (11-1801) hàng thần Trần văn Kỷ có tội bị giết. kỷ đã quy thuận lại ám thông với Nguyễn Quang Toản, việc bị lộ vua sai quan tra hỏi. Kỷ đều thú nhận, bèn giết và tịch thu gia sản”[36].
Cũng vào khoảng tháng 11 – Tân Dậu (12-1801) Nguyễn Ánh sai “phá hủy một giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ, bỏ xác, phơi thây bêu đầu ở chợ. Con trai, con gái, họ hàng và tướng hiệu của giặc 31 người đều bị lăng trì cắt nát thây. Thiên hạ lấy làm khoái”[37].
Vào tháng Giêng năm Nhâm Tuất (1802) nhân dịp sai phái Phạm Văn Nhân và n Quế dẫn binh vào Bình định hợp đánh Trần Quang Diệu, Nguyễn Ánh đã “đem bọn đô đốc, tham đốc giặc bị bắt 20 người chém để ra lệnh”[38].
Cuối cùng vào ngày mồng 7 tháng 11 năm Nhâm Tuất (11-11-1802) sau khi đánh tan quan quân Cảnh Thịnh, trở về kinh thành, Gia Long đã làm lễ hiến phù ở Thái Miếu, sai Nguyễn Văn Khiêm là Thống chế dinh túc trực và Nguyễn Đặng Hựu là Tham tri Hình bộ áp giải Nguyễn Quang Toản và em là Quang Duy, Quang Thiệu, Quang Bàn ra ngoài cửa thành xử án lăng trì cho 5 voi xé xác (dùng 5 con voi chia buộc vào đầu và hai tay chân, rồi cho voi xé, đó là một thứ cực hình) đem hài cốt của Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ giã nát rồi vứt đi, còn xương đầu lâu Nhạc, Huệ, Toản và mộc chủ của vợ chồng huệ thì đều giam ở Nhà Đồ Ngục. Còn đồ đảng là bọn Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng đều xử trị hết phép, bêu đầu cho mọi người biết.



ß Hội KHLS Thừa Thiên – Huế.
[2] Đại Nam thực lục, NXB Sử học, Hà Nội, 1962, T2, Tr. 399
[3] Đại Nam thực lục, Sđd, T2, Tr. 401.
[4] Đại Nam thực lục, Sđd, T2, Tr. 406.
[5] Đại Nam thực lục, NXB Sử học, Hà Nội, 1962, T2, Tr. 412.
[6] Đại Nam thực lục, Sđd, T2, Tr. 416.
[7] Đại Nam thực lục, Sđd, T2, Tr. 417.
[8] Đại Nam thực lục, Sđd, T2, Tr. 427
[9] Đại Nam thực lục, Sđd, T2, Tr. 430.
[10] Đại Nam thực lục, Sđd, T2, Tr. 433.
[11] Đại Nam thực lục, Sđd, T2, Tr. 456.
[12] Đại Nam thực lục, NXB Sử học, Hà Nội, 1962, T2, Tr. 403.
[13] Đại Nam thực lục, Sđd, T2, Tr. 436.
[14] Đại Nam thực lục, Sđd, T2, Tr. 451.
[15] Đại Nam thực lục, Sđd, T2, Tr. 457.
[16] Đại Nam thực lục, Sđd, T3, Tr. 14.
[17] Đại Nam thực lục, Sđd, T3, Tr. 29.
[18] Đại Nam thực lục, Sđd, T3, Tr. 45.
[19] Đại Nam thực lục, Sđd, T3, Tr. 62.
[20] Đại Nam thực lục, Sđd, T2, Tr. 404.
                Xem thêm tờ biểu ngày 2 tháng 8 năm Tân Dậu (9 – 9 – 1801) của thần cách quân tri tượng chính đô thống chế Nguyễn Đức Xuyên và chỉ truyền của Nguyễn Ánh gởi Nguyễn Đức Xuyên (nhận được ngày 13 tháng 9 năm Tân Dậu) về trường hợp sử dụng hàng tướng đô đốc Phong (Nghiên cứu Huế, tư bản. 2001, Lý lịch sự vụ Nguyễn Đức Xuyên; Trần Đại Vĩnh dịch và giới thiệu; tr. 175 và 178.
[21] Đại Nam thực lục, Sđd, T2, Tr. 425.
[22] Đại Nam thực lục, Sđd, T2, Tr. 418.
[23] Đại Nam thực lục, Sđd, T2, Tr. 407.
[24] Đại Nam thực lục, Sđd, T2, Tr. 432.
[25] Đại Nam thực lục, Sđd, T2, Tr. 441.
[26] Đại Nam thực lục, Sđd, T2, Tr. 444.
[27] Đại Nam thực lục, Sđd, T2, Tr. 448.
[28] Đại Nam thực lục, Sđd, T2, Tr. 449.
[29] Đại Nam thực lục, Sđd, T3, Tr. 11.
[30] Đại Nam thực lục, Sđd, T3, Tr. 10.
Đến ngày 11 tháng 2 Gia Long 2 (3-3-1803) ban hành “Điền tô sai dư thuế lệ” quy định ruộng và thuế thân; ngày 7 tháng tư, Gia Long 3 (15-5-1804) ban hành tiếp “Điền chế quân cấp lệ” qui định thể lệ quân cấp và chế độ ruộng. (Xem thêm văn bản Hán Nôm làng xã ở Huế, T1, n Thuyên chủ biên; NXB Thuận Hóa, 1996)
[31] Đại Nam thực lục, Sđd, T3, Tr. 24.
[32] Đại Nam thực lục, Sđd, T3, Tr. 29.
[33] Đại Nam thực lục, Sđd, T3, Tr. 31-32.
[34] Đại Nam thực lục, Sđd, T3, Tr. 33.
[35] Đại Nam thực lục, Sđd, T3, Tr. 49.
[36] Đại Nam thực lục, Sđd, T2, Tr. 451.
[37] Đại Nam thực lục, Sđd, T3, Tr. 10.
[38] Đại Nam thực lục, Sđd, T2, Tr. 446.

No comments:

Post a Comment