Sunday, May 29, 2016

TRIỀU NGUYỄN VÀ THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI LỊCH SỬ (Một biểu hiện văn hóa ở nửa đầu thế kỷ XIX)



Phạm Hồng Việtß

Thái độ đối với lịch sử của triều Nguyễn được thể hiện trên nhiều mặt.
Trước hết là quan tam đến việc tôn thờ các vị anh hùng dân tộc, những người có công với đất nước. Đền thờ cũ đã có, nếu hư thì sửa, nếu hỏng thì làm lại, có quy mô khang trang hơn. Hàng năm, triều đình cho tổ chức lễ hội trang trọng ở đền Hùng, đền Hai Bà Trưng, bà Triệu. Các vua Nguyễn coi trọng việc lập bàn thờ các vị đế vương như Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lý Thái Tổ, Trân Nhân Tông, Lê Thái Tổ. Ngay năm thứ hai của triều Nguyễn, đền thờ Lý Bát Đế ở Đình Bảng đã được chăm sóc. Nhà nước lấy dân sở tại làm phu để trông nôm miếu và miễn cho ho những lao dịch khác.
Năm 1809, nhân dịp lập miếu cho vua Lê Thánh Tông, Gia Long dụ: “Vua Thánh Tông phá Chiêm Thành, mở đất Phú Yên, đem dân vào ở, công khai thác từ đó làm đầu. Nay nên lập miếu làm nơi sung tự, cho 18 dân làng Phú Xuân làm miếu phu, đến ngày Nhâm mùa xuân, mùa thu, sai quan đến tế”[1].
Ngoài việc lậpđền thờ, triều Nguyễn đã tổ chúc điều tra, xác minh lăng mộ các vị vua và sau đó dựng bia để định vị. Không chỉ là đối với vua chúa, mà cả những anh hùng có công đối với nước với dân như Nguyễn Bặc, Lê Phụng Hiểu,  Lý Thường Kiệt, Tô Hiến Thành, Trần Quốc Tuấn, Trần Nhật Duật, Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, Đinh Liệt, Lê Xí, Hoàng Đình Ái, Phùng Khắc Khoan – triều Nguyễn cũng có cho thờ tại đền Lịch đại đế vương[2].
Năm 1809, Gia Long ban sắc thần cho các xã để thờ làm Thành Hoàng. Năm 1814, lại một lần nữa, nhà vua xem xét các sắc thần để phong tiếp. Triều đình Huế thường xuyên xem xét duyệt các đơn xin thờ Thành Hoàng của các làng xã, sắp xếp thứ hạng các Thành Hoàng làng theo 3 cấp độ công lao: hạ đẳng thần, trung đẳng thần, thượng đẳng thần[3].
Việc thờ cúng các vị anh hung dân tộc và những người có công với dân với nước của triều Nguyễn không đơn thuần hàm chứa ý tưởng tôn giáo mà còn là ý thức trách nhiệm lịch sử.
Thứ hai, các vua triều Nguyễn chăm lo việc viết sử sách. Gia Long (1802 – 1819) đặt vấn đề ghi chép sử thời các chúa Nguyễn lên hang đầu. Triều Nguyễn giao trách nhiệm cho “Sử quán” soạn “Quốc triều thực lục”. Gia Long đặt vấn đề biên soạn lịch sử thời các chúa, Minh Mệnh đặt vấn đề biên soạn lịch sử thời các vua nhà Nguyễn. Đến thời Thiệu Trị (1841 – 1847), từ ngữ sử dụng mang ý nghĩa rõ hơn. Sách “Thực lục tiền biên” chỉ thời các chúa, sách “Thực lục chính biên” chỉ thời các vua[4]. Tự Đức rất quan tâm đến sử học. Nhà vua đã chủ trương biên soạn cho bằng được một bộ sử của nước nhà, của dân tộc từ thời lập quốc cho đến các triều đại về sau. Bộ sách được viết mang tên “Khâm định Việt sử thông giám cương mục”. Trong bài dụ về việc biên soạn sử của Tự Đức, đề ngày 22/1/1856 có đoạn viết; “Về việc làm sử ấy…định đến đầu năm tới, giao cho đình thần lựa chọn để cử những viên trông coi việc chép Việt sử: Gồm có một viên tổng tài, một viên phó tổng tài, tám viên toản tu, sáu viên hiệu khảo, tám viên đằng tá. Các viên ấy có nhiệm vụ đem sử biên niên các đời trước ra, tham khảo với các truyện ký linh tinh của các nhà trước tác, điều gì trong sử củ còn sót thì bổ sung thêm vào, điều gì sai lầm thì đính chính lại. Việc nào nên chép lại hay nên bỏ đi, việc nào nên khen hay nên chê, đều theo đúng như phương pháp chép sử cương mục của Tử Dương (tức Chu Hy), chép thành toàn bộ “Khâm Định Việt sử thông giám cương mục”
Theo Trần Văn Giáp thì “Trong các bộ sử Việt Nam của ta viết từ xưa, có nhiều bản chữ Hán hay chữ Nôm, bộ “Việt sử thông giám cương mục” do sử quán triều Tự Đức biên soạn, đối với thời đó là một bộ sử đầy đủ nhất và có giá trị nhất: một là về phương pháp ở hoàn cảnh thời gian ấy, tương đối là hoan thiện; hai là tài liệu thu thập được và sử dụng tương đối đầy đủ”[5].
Có thể xem Quốc sử quán như là cơ quan văn hóa lớn nhất của triều Nguyễn ở kinh đô Huế. Nhà vua đã cử những quan to, có tên tuổi, được tin cậy, có khi hang nhất phẩm ở triều đình tham ga biên soạn sách lịch sử như Trương Đăng Quế, Vũ Xuân Cẩn, Hà Duy Phiên, Trần Tiễn Thành, Phan Thanh Giản, Nguyễn Tư Giản, Nguyễn Khuyến, Phạm Xuân Quế, Nguyễn Thông…Nhiều bộ sách sử hoặc sách có giá trị sử học rất đồ sộ như: “Đại Nam thực lục”, “Đại Nam nhất thống chí”, “Minh Mạng chính yếu”, “Việt sử thông giám cương mục”, “Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ”…đã ra đời dưới triều Nguyễn. Dưới thời Nguyễn cũng đã xuất hiện nhiều tác giả sử học uyên bác như Phan Huy Chú, Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định…Các vua triều Nguyễn theo dõi chặt chẽ công việc của Quốc sử quán và đã có nhiều quan điểm sử học tích cực. Ý thức về việc cần viết lịch sử, Minh Mệnh đã xuống chiếu cầu những điểm cũ của các triều trước: “Đời Đế đời Vương ngày xưa, mỗi khi đã dấy nên nghiệp lớn, thì có sử một đời, chép những lời nói việc làm cùng chính sự, để truyền lại đời sau”[6]. “Nước có sử là để tin ở đời nay mà truyền lại đời sau. Tất cả thần công các người dự vào sử cuộc hãy nên cố gắng làm sao cho bút pháp được đúng đắn, việc biên không thiếu sót, lập thành tin sử một đời”[7]. Về việc dựng lập Quốc sử, Minh Mệnh giải thích: “Nếu chẳng có sử sách thì lấy gì truyền lại cho đời sau lâu dài…Trẫm muốn dựng sử quán, sai các bậc nho thần soạn lập bộ Quốc sử thực lục để nêu lên những công cuộc xây dựng nền tảng thịnh vượng để cho đời sau bắt chước vậy”[8].
Trong lời dụ ngày 22/1/1856 về việc biên soạn  sách Việt sử, Tự Đức viết: “Gần đây, việc học Quốc sử, chưa ra mệnh lệnh bắt phải gia công, cho nên học trò đọc sách hoặc làm văn chỉ biết có sử Trung Quốc, ít người đoái hoài đến sử nước nhà! Đạo học sở dĩ chưa được sáng tỏ nguyên nhân chẳng vì sử cũ chưa được đầy đủ đó sao?”[9]. Khi đọc đoạn sử viết về Bà Triệu, Tự Đức đã châu phê: “Con gái nước ta người hùng dũng khác thường. Bà Triệu Âu cũng là người sánh vai với Hai Bà Trưng…Há phải nói chỉ có Trung Quốc là có đàn bà nổi tiếng đâu? Nhưng nói là vú dài thì cũng là quái gỡ, nực cười”[10]. Tự Đức nhận thức ngòi bút sử gia là rất quan trọng. Chính nhà vua cũng tự nhận rằng điều ông viết trong “Khiêm Cung Ký” để tự nhận định về đời mình – đúng hay sai, hay hay dỏ còn tùy ở “sử bút” của hậu thế. “Công việc mà ta đã làm hay hoặc dở thế nào thì đã có ngòi bút của nhà viết sử”.
Tự Đức cũng rất có ý thức lấy việc đời xưa trong quốc sử để nhắn nhủ việc đời nay: “Trẫm nhân đọc Việt sử, thấy việc bậc đại thần triều Lý có Tô Hiến Thành vân mạng tiên đế giúp vua nối ngôi khi còn nhỏ tuổi, lúc ấy biết bao là lời ngọt, tiền của dút mà vẫn không thay đổi tiết lớn, trung can không cướp đoạt. Trẫm rất coi trọng nhân phẩm người đó”[11].
Một số sử gia triều Nguyễn trong “Đại Nam liệt truyện” cũng có những trang viết khá chân thật và hấp dẫn về một số nhân vật quan lại triều Nguyễn. Chân dung Nguyễn Công Trứ dưới thời Minh Mệnh, người có nhiều công lao trong việc tổ chức khai hoang ở vùng duyên hải Bắc Bộ được phác họa khá chân thật.
“Công Trứ là người trác lạc, có tài khí, có tài làm văn, càng giỏi về quốc âm, làm thi ca rất nhiều, khí hào mại, phổ đầy trong âm luật, đến nay hãy còn truyền tụng. Trứ làm quan thường bị bãi cách rồi được cất nhắc lên ngay: tỏ sức ở chiến trường nhiều lần lập được công chiến trận.
Buổi đầu Trứ lĩnh chức doanh điền, sửa sang mới có trong một năm mà các việc đều có đầu có mối, mở mang ruộng đất, tụ họp lưu dân, thành ra mối lợi vĩnh viễn. Sauk hi Trứ mất, các huyện ấp ông lập đều dựng đền để thờ”[12].
Tuy nhiên, việc gắn bó giữa quá khứ và hiện tại ở thời Nguyễn cũng có những mặt trái và những biểu hiện tự mâu thuẫn. Một mặt lập đền thờ, định vị lăng mộ các vua chúa và những người có công trong lịch sử, viết những lời tốt đẹp về các vua Lê…mặt khác các vua triều Nguyễn không thể vượt lên những hạn chế rất tầm thường, đã quật mộ Nguyễn Huệ, trả thù hèn mạt những người rất có công với nước, từng đánh bại quân xâm lược ở Rạch Gầm – Xoài Mút, ở Thăng Long – Đống Đa. Theo sự chỉ đạo của các vua triều Nguyễn, một số sử gia triều Nguyễn không tiếc lời bô nhọ Nguyễn Huệ (một người nổi tiếng cứu nước) và đề cao biện hộ cho Lê Chiêu Thống. Đại Nam thực lục, Đại Nam chính biên liệt truyện, Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam hội điển sử lệ…được viết trước hết là vì triều Nguyễn. Trong danh sách những người đáng tôn thờ mà triều Nguyễn liệt kê, có không ít những người có công với dân tộc, nhưng chủ yếu là những người có công xác lập quyền thống trị của triều Nguyễn, những người này được lập miếu thờ “miếu thờ Lương, miếu thờ trung nghĩa….”.
Quốc sử quán triều Nguyễn đã bỏ nhiều công sức để biên soạn “Đại Nam liệt truyện” gồm 87 cuốn, hơn 2000 trang. Cũng giống như nhiều bộ sách đồ sộ khác ra đời dưới triều Nguyễn. “Đại Nam liệt truyện” đã cung cấp cho đời sau nhiều nguồn tư liệu cần thiết để hiểu thêm lịch sử Việt Nam dưới thời các chúa Nguyễn và triều Nguyễn. Tuy nhiên bộ sách này đã bộc lộ ý đồ tôn vinh và củng cố vương quyền dòng ho của triều Nguyễn một cách lộ liễu.
Chịu sự chi phối sâu sắc của những quan điểm Hán Nho và Tống Nho, các tác giả của “Đại Nam liệt truyện” đã liệt kê tỉ mỉ các hậu phi, hoàng tử, công chúa, tôn thất, quan lại, các “liệt nữ” (đàn bà tiết liệt), “ngụy Tây” (các nhân vật thời Tây Sơn), các “nghịch thần” (Nông Văn Vân, Cao Bá Quát…), đã thể hiện nhất quán sự tuân thủ tuyệt đoối quyền lực của vua chúa triều Nguyễn.
Dưới chế độ phong kiế, quyền lợi của dân tộc phần nào gắn với quyền lợi dòng họ đang cầm quyền. Tuy nhiên trong thái độ đối với tiền nhân và quá khứ, có khi các vua Nguyễn đứng ở góc độ quyền lợi của dòng họ cao hơn là đứng ở góc độ dân tộc. Chính điểm này là bộc lộ điều hạn chế rất đáng tiếc tác dụng “giáo dục lịch sử” ở đầu thế kỷ XIX, cho dù Minh Mệnh có mong cho “bút pháp của sử gia được đúng đắn, vựng biên không thiếu sót”.
Khác với Nguyễn Ái Quốc khi ca ngợi Hoàng Diệu và Nguyễn Tri Phương đã biểu lộ tinh thần dân tộc và lòng yêu nước thì “Đại Nam liệt truyện” của triều Nguyễn đã viết về những vụ “tội trạng” này trước hết là với mục đích tôn vinh và củng cố ngai vàng phong kiến. Nguyễn Tri Phương chỉ huy giữ thành Hà Nội. Thành bị hạ, Tri Phương bị thương, nhịn ăn mà chết. Tự Đức phán: “Ngay thành ấy mà không giữ được. Phương về nghĩa không chịu nhục, rồi mang chí mà chết. Vì khoảng viên ấy không biết khéo làm, dáng xét tội gì Trẫm đã gieo cho công luận, hãy đợi sẽ chuẩn cho thi hành”, và “chuẩn cho Phương được thờ đền trung nghĩa[13].
Hoàng Diệu “tính cương trực, làm quan thanh liêm, liêm sự quyết đoán, có phong độ bậc đại thần. Ngày Diệu làm tổng đố Hà Ninh, vua thấy Diệu có mẹ già, ban cho sâm quế bạc sa để an ủi, thực là đặc ơn vậy”.
Mặc dù Tự Đức có trách học trò “chỉ biết đến cổ sử Trung Quốc”, nhưng khi phải viện dẫn sách quá khứ để soi sáng hiện tại, các vua nhà Nguyễn cũng thiên bàn về Nghiêu, Thuấn, Chu Công, Đường Minh Hoàng, Dương Phi[14]. Ngay cả việc biên soạn “Việt sử thông giám cương mục”, Tự Đức cũng yêu cầu sử gia phải “đúng theo phương pháp của Chu Hy”.
Trong thái độ đối với lịch sử, triều Nguyễn có khoảng cách quá xa đối với các bậc tiền bối, nếu nhớ lại lời Lê Thánh Tông từng ra lệnh cho các tướng: “Kẻ nào dám đem một thước núi, một tấc đất của vua Thái Tổ để lại làm mồi cho giặc thì kẻ đó phải bị trừng trị nặng”[15]. Hoặc như Quang Trung, đã từng biết huy động sức mạnh truyền thống lịch sử để bảo vệ đất nước, khi trên đường hành quân chống lại quân Thanh xâm lược, tại buổi lễ duyệt binh ở Nghệ An đã nhắc lại trước ba quân chiến công giữ nước của Lê Đại Hành, Trần Hưng Đạo, Lê Thái Tổ[16].
Khi tiếp cận với dân tộc Việt Nam trong âm mưu xâm lược, thực dân Pháp đã vấp phải một dân tộc có truyền thống lịch sử phong phú và có nền văn hiến lâu dài. Bề dày lịch sử đó “không chỉ riêng dân tộc ta mới có, nhưng không phải bất cứ nơi nào cũng có. Chúng ta chỉ cần nhớ lại tư bản phương Tây chinh phục châu Phi và một số vùng châu Á trước đó, sẽ thấy rõ điều này”[17].
Trong nhiều lý do mà triều Nguyễn phải chịu trách nhiệm trước lịch sử về việc để mất nước, có một lý do là triều Nguyễn không huy động được sức mạnh lịch sử dân tộc, sức mạnh truyền thống, mặc dù triều Nguyễn rất chú ý lịch sử, có một “Quốc sử quán” đồ sộ, và mặc dù Tự Đức thường răn dạy “Học thấu triệt là để ra dùng việc”. Phải chăng vì ở đây “hành” chưa đi liền với “nhận thức” hay vì triều Nguyễn chí trọng lịch sử, nhưng mới chỉ coi trọng lịch sử của vương triều Nguyễn là chủ yếu mà chưa thấu triệt đầy đủ lịch sử của cả dân tộc.




ß Khoa Lịch sử, ĐHSP Huế
[1] Quốc triều chính biên toát yếu, Sài Gòn 1971, tr 70.
[2] Nguyễn Văn Kiệm, Chính sách tôn giáo của nhà Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX, NCLS số 6 (271), tr. 26.
[3] Sđd, tr. 26.
[4] Đại Nam thực lục chính biên gồm 13 quyển (2 cuốn), chép các sự việc của chúa Nguyễn, bắt đầu từ Nguyễn Hoàng – 1558 đến Cảnh Hưng thứ 38. Đại Nam thực lục chính biên gồm 66 cuốn, mỗi đời là một kỷ. Xem Trần Văn Giáp: “Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập I, NXB Văn hóa, 1998, tr. 137 – 138. Một số nhà sử học cho rằng Đại Nam thực lục là bộ sử đầy đủ và hoàn chỉnh của một triều đại quan chủ viết về mình.
[5] Sđd, tr. 155.
[6] Minh Mệnh chính yếu, Tập I, XB ở miền Nam 1972, tr. 61.
[7] Sđd, tr. 63.
[8] Sđd, tr. 62.
[9] Việt sử thông giám cương mục. Bản dịch của Ban NCVSD, NXB VSD, tập I, Hà Nội, 1957, tr. 11 – 12.
[10] Dẫn lại của Phan Thuận An, Sđd, tr. 99.
[11] Tự Đức thánh chế văn tạp tập, QX – XII – XIV, XB ở miền Nam, tr. 52.
[12] Quốc sử  Quán triều Nguyễn, Đại Nam liêt truyện, NXB Thuận Hóa, Huế 1993, tập 3, tr. 390.
[13] Đại Nam liệt truyện, Sđd, tr. 461 – 462.
[14] Minh Mệnh chính yếu, tập II, Sđd, tr. 11, 19, 22, 18.
[15] Quốc sử quán triều Nguyễn, Việt sử thông giám cương mục (chính biên), tập XI.
[16] Dẫn lại lịch sử Việt Nam, tập I, UBKHXH, Hà Nội, 1971, tr. 352.
[17] Hồ Song, Thử nhìn lại sự thật của nhân dân ta nửa sau thế kỷ XIX trong tập san “Triều Nguyễn – Những vấn đề lịch sử tư tưởng và văn học”, ĐHSP Huế, 1993, tr. 39.

No comments:

Post a Comment