Nhà vua yêu nước, người xuống chiếu Cần Vương năm 1885, tên thật là Nguyễn
Ưng Xụy, tự Ưng Lịch, sinh năm 1871 ở Huế, quê làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh
Thanh Hóa, là con út của Kiên Thái Vương (con của vua Thiệu Trị). Cha mất sớm,
Ưng Lịch không may mắn như hai người anh là Chánh Mông và Dướng Thiện (sau lên
ngôi là Kiến Phúc) được Tự Đức* nhận làm con nuôi, ông phải sống cảnh hàn vi
cùng mẹ ở ngoài thành. Kiến Phúc mất (7.1884) ông được Nguyễn Văn Tường* và Tôn
Thất Thuyết* tôn lên làm vua lúc mới 13 tuổi (1.8.1884). Lúc này hòa ước
Patenôtre đã được ký kết, xác nhận quyền bảo hộ của nhà nước Pháp đối với Việt
Nam nhưng triều đình Huế lại không báo cho nhà cầm quyền Pháp biết lễ đăng
quang của vua Hàm Nghi. Lại có sự kiện vua không bước xuống ngai vàng khi khâm
sứ Rheinart đến tiếp kiến, khi về Rheinart lại không được ra bằng cửa chính.
Tháng 7.1885, Toàn quyền De Courcy vào Huế đòi quan quân Pháp phải được vào bằng
cửa chính và khi nhận thư ủy nhiệm, vua phải bước xuống ngai vàng. Triều đình
Huế không chấp nhận. Thực dân Pháp tìm cách bắt Tôn Thất Thuyết, một trong những
người đứng đầu phe chủ chiến ở Huế. Tôn Thất Thuyết cùng Nguyễn Văn Tường quyết
định ra tay trước, tấn công vào quân Pháp ở kinh đô Huế. Việc thất bại, vua Hàm
Nghi phải xuất bôn (5.7.1885) lúc ấy ông mới 14 tuổi. Nguyễn Văn Tường trốn ở lại.
Vua cùng Tôn Thất Thuyết và đoàn tùy tùng chạy ra Quảng Trị. Ngày 9.7 vua để
cho những người già cả, phụ nữ trở về Huế, còn mình cùng đoàn hộ giá đi tiếp đến
Tân Sở. Ở đây chừng mười ngày, do thấy địa thế không thuận lợi, vua cùng đoàn hộ
giá sang Cam Lộ để ra Quảng Bình, nhưng bị quân Pháp chặn đường, phải ngược lên
Mai Lĩnh qua Lào, rồi vượt đèo Quy Hợp về đóng bản doanh tại Ấu Sơn, thuộc
Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Tại đây, vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương kể tội thực
dân Pháp từng bước thôn tính Việt Nam và kêu gọi nhân dân khắp nơi đứng lên chống
Pháp. Hưởng ứng lời kêu gọi của vua Hàm Nghi, trong ba năm (1885 – 1887) khắp
các tỉnh ở Bắc kỳ và Trung kỳ, phong trào Cần Vương chống Pháp nổ ra mạnh mẽ. Biết
rõ vai trò to lớn của vua Hàm Nghi, thực dân Pháp đưa quân càn quét khắp các tỉnh
rừng núi Quảng Bình, Hà Tĩnh để lùng bắt ông, nhưng được sự giúp đỡ, bao bọc của
nhân dân trong vùng nên việc làm của quân Pháp không có kết quả. Người Pháp còn
ép nhiều người như Nguyễn văn Tường, Từ Dụ Thái hậu viết thư khuyên vua trở về
nhưng ông không chịu. Vua Hàm Nghi thường nói: “Thà chết ở trong rừng còn hơn
là trở về làm vua mà phải sống trong vòng cương tỏa của kẻ thù”. Không bắt được
vua Hàm Nghi, thực dân Pháp và triều đình Huế lập vua mới là Đồng Khánh, thế
nhưng ở nhiều nơi vẫn dùng niên hiệu Hàm Nghi. Trong mấy năm trời cùng một số
ít người bảo vệ như Tôn Thất Hiệp* (con thứ của Tôn Thất Thuyết) cha con Nguyễn
Thúy và đội quân người Mường của Trương Quang Ngọc, vua Hàm Nghi luôn thay đổi
chỗ ở trong rừng nên nhiều lần thoát được sự truy lùng của Pháp. Sau Pháp mua
chuộc được Trương Quang Ngọc, nên đêm 1.11.1886, Ngọc dẫn thuộc hạ đến vây nơi
vua ở tại làng Tả Bào (Tuyên Hóa, Quảng Bình) rồi nửa đêm xông vào chỗ ngủ của
vua để bắt. Tôn Thất Hiệp cầm gươm xông ra bị chúng giết tại chỗ. Vua Hàn Nghi
rút gươm chỉ Ngọc và bảo: “Mày cứ giết tao đi còn hơn là bắt tao đem nộp cho
Tây”. Một thuộc hạ của Ngọc nhảy đến sau lưng vua giựt gươm đi. Từ đó vua rất
ít nói, và một mực không nhận mình là Hàm Nghi, cho đến khi gặp người thầy học
cũ là Nguyễn Thuận tới thăm, vua mới sụp lại. Do vậy quân Pháp mới tin chắc rằng
đã bắt được vua Hàm Nghi. Đến Huế, khi Rheinart hỏi vua có muốn về thăm bà Thái
Hậu, vua trả lời: “Tôi thân đã tù, nước đã mất, còn nghĩ gì đến cha mẹ, anh em
chị em nữa”. Khi chuẩn bị xuống tàu đi lưu đày, vua mới đòi quân Pháp hãy để
cho ông nhìn lại lần cuối kinh thành Huế.
Khi xuống thuyền và được biết phải chuyển sang tàu “La Comète” nhổ neo,
nhìn lên bờ, thấy sắp phải xa quê hương đất nước, không nén nổi xúc động, vua
òa lên khóc. Lúc ấy vua đã được 18 tuổi. Tôn Thất Đạm*, một người con khác của
Tôn Thất Thuyết, đang lãnh đạo kháng Pháp ở Hà Tĩnh, nghe tin vua bị bắt, bèn
viết dâng lên vua một thư tạ tội vì đã không bảo toàn được cho vua, rồi cho
quân sĩ giải tán về quê làm ăn, đoạn thắt cổ tự tận. Phong trào Cần Vương bị lắng
xuống, nhưng ở nhiều nơi người ta vẫn còn dùng niên hiệu Hàm Nghi, chứ không thừa
nhận Đồng Khánh.
Thực dân Pháp đưa vua Hàm Nghi đi an trí ở làng El Biar trên đồi
Mustapha Superieur, ngoại ô thủ đô Alger (Algérie). Lúc đầu, vua Hàm Nghi không
chịu học tiếng Pháp, vì cho rằng làm như thế là thừa nhận sự nô lệ của mình.
Nhưng sau thấy học tiếng Pháp là cần thiết, ông học tiếng Pháp, nghiên cứu âm
nhạc và mỹ thuật phương Tây. Ông còn học vẽ và trở thành họa sĩ. Tranh của ông
được giới mỹ thuật quan tâm. Sau gia đình ông còn lập một lò gốm nhỏ để giới
thiệu với địa phương nghệ thuật gốm Việt Nam. Sống lâu ngày ở xứ người nhưng
Hàm Nghi vẫn đội khăn lượt, mặc áo dài, để búi tóc. Ông bị an trí cho đến khi mất
(1947).
V.H.L.
No comments:
Post a Comment