Quảng
Ngãi là vùng “đất bạc dân châm…người quân tử thích việc nghĩa, giữ khí tiết…Địa
thế tuy hẹp mà khí mạch tốt, nên đời nào cũng có nhiều người làm đến quan to
chức trọng, bước đường thanh thản, trọn được danh vọng…học trò thì tư chất
thông minh nhiều kiến thức…, học nghiệp phần nhiều không chuyên, nhưng nếu biết
cố chí thì cũng nhiều người thành tựu[1].
đây là nhận xét của Quốc sử quán triều Nguyễn về học nghiệp và khoa ở Quảng
Ngãi dưới triều đại này.
Trong
cuộc Nam tiến, cư dân Đại Việt từ vùng Bắc
bộ và Bắc Trung bộ đi dần vào vùng đất Quảng Ngãi sinh cư lập nghiệp. Cùng với
việc di cư của người Việt, giáo dục văn hóa, đặc biệt con đường học hành, thicử
cũng được du nhập vào vùng đất mới.
Dưới
chế độ phong kiến triều Nguyễn, việc tổ chức học hành cho nhân dân Quảng Ngãi
còn hạn chế. Phần lớn tầng lớp nho sĩ được đào tạo buổi đầu bởi thầy đồ ở làng
xã. Ở nông thôn, các gia đình dù nghèo khó đến mấy cũng cố gắng dành dụm cho
con em đi học, biết chút ít chữ nghĩa, lễ giáo để làm người. Điều này biểu thị
một truyền thống hiếu học của người dân Quảng nghèo.
Đến
kỳ thi Hương, thi Hội, sĩ tử Quảng Ngãi phải “khăn gói” đi “ứng thi” ở các
trường thi Bình Đình. Thứa Thiên. Theo qui định của triều đình, Qảng Ngãi chỉ được
tuyển cử 200 thí sinh tham gia các kỳ thi HƯơng ở trường thi BÌnh Định và
thường chiếm bảng đầu.
Tuy
vậy, ở Quảng Ngãi dưới thời nhà Nguyễn có 9 người đỗ Tiến sĩ, Phó bảng, 138
người đỗ cử nhân và hàng trăm Tú tài các hạng.
Theo Phan Đại Doãn và Nguyễn Ngọc Quỳnh trong
quyển “Một số vấn đền về quan chế triều Nguyễn”, chỉ riêng số Tiến sĩ, Phó bảng
ở từng tỉnh theo thứ tự từ cao xuống thấp thì Quảng Ngãi đứng vị trí thứ 13,
chiếm 1,8% trong tổng số người có học vị này trong cả nước, sau các tỉnh Nghệ
An, Thừa Thiên, Hà Tĩnh, Nam Định, Quảng Bình, Hà Nội, Quảng Nam, Bắc Ninh,
Thanh Hóa, Quảng Trị, Sơn Tây, Hà Đông, Hải Dương[2].
Trương
Đăng Quế là người khai khoa thi Hương ở Quảng Ngãi và Nguyễn Bá Nghi là người
khai khoa thi Hội[3] ở vùng
đất này.
Sĩ
tử Quảng Ngãi một thời gây tiếng vang ở các trường thi Thừa Thiên, Bình Định về
khả năng uyên bác nhohọc và đã giành được vị trí thủ khoa, á khoa trong các kỳ
thi Hương, như Phan Văn Điển, Kiều Tòng, Phạm Thúc, Nguyễn Luật, Nguyễn Duy
Cung, Trương Đăng Tuyển, Phạm Viết Duy, Phạm Văn Hành, Phạm Hữu Mô, Bùi Phụ
Truyền, Trần Cừ, Phạm Văn Chất, Đỗ Quân, Dương Huy, Trần Phan, Phạm Trinh…Trong
khoa thi Hôi năm Nhâm Dần (1842). Quảng Ngãi có hai người cùng thi đỗ là Trương
Đăng Trinh (Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân) và Đỗ Đăng Đệ (Phó bảng).
Ở
Quảng Ngãi, nhiều gia đình có truyền thống khoa cử, như gia đìnhTrương Đăng Quế
(cha, con, cháu đều đỗ đạt), Đoàn Khắc Nhượng và Nguyễn Đăng Ngoạn (cha, con
thi đỗ), Đỗ Đăng Đệ (ông, cháu thi đỗ), Nguyễn Duy Cung (anh, em thi đỗ)…Nhiều
người lớn tuổi vẫn cố chí học hành để đi thi và đỗ đạt như Dương Huy (đậu Cử
nhân năm 41 tuổi), Lê Chi (đậu Cử nhân năm 44 tuổi), Võ Quý (đỗ Cử nhân lúc 53
tuổi).
Với ý nghĩa dân tộc cao, đông đảo nho sĩ Quảng
Ngãi đỗ đạt làm quan to chức trọng hoặc làm thầy làm thầy dạy học đã tiếp thu
tinh hoa của Nho giáo kết hợp với khả năng của mình và truyền thống của dân
tộc, đã có những đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Trước
hết phải kể đến Trương Đăng Quế, Ông là người có sức học uyên thâm, có tài kinh
bang tế thế, trải thờ bốn đời vua (Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức), hơn
bốn mươi năm giữ việc cơ yếu của triều đình. Trương Đăng Quế công trong việc
góp phần hình thành thiết chế của nhà nước triều Nguyễn, phát triển kinh tế,
văn hóa nước ta. Trên con đường quan lộ, ông lần lượt giữ các chức vụ Đông cung
bạn đọc, Kinh diên giảng quan, độc quyển các khoa Điện thi, chủ khảo trường thi
Hội, Tổng tài Quốc sử quán, Thượng thư Bộ Binh, được tặng hàm Cần chính điện
Đại học sĩ, phụ chính, Cơ mật viên đại thần, hai lần vân Cố mệnh lương thần,
gia tặng hàm Thái Bảo, được tấn phong tước Tuy Thạnh quận công. Khi còn sống ,
ông được triều đình khen là “bậc lão thành luyện đạt, nghe nhiều khéo xử đoán”[4].
Ông là tấm gương về thanh liêm, chính trực, có “lòng trung hậu, cần mẫn, thận
trọng, cẩn mật”[5]. Khi
chết Trương Đăng Quế được truy phong Thái sư, được thờ ở Thế Thất. Ông đã để
lại một số tác phẩm văn học như “Học văn dư tập”, “Quảng Khê thi văn tập”.
Nguyễn
Bá Nghi là người rất “uyên thâm về kinh học”
“có tiếng về văn học và chính sự”[6],
đã từng giữ chức Kinh diên giáng quan, chủ khảo các kỳ thi Hương, Cơ mật viên
đại thần; Thượng thư Bộ Hộ, Tổng đốc Sơn – Hưng – Tuyên, Hiệp biện đại học sĩ:
Ông còn để lại cho đời sau tác phẩm “Sư phần thi tập”.
Đỗ
Đăng Đệ là Thượng Thư Bộ Lễ, Tổng tài Quốc sử quán, kiêm quản Quốc Tử Giám, để
lại cho đời sau tập thơ văn “Tùng Đường di thảo”.
Trong
thời kỳ thực dân Pháp xâm lược và thống trị nước ta, nhiều nhà khoa học Quảng
Ngãi đứng về phía nhân dân đứng lên chống Pháp. Giữa tháng 2 – 1859, thực dân
Pháp tấn công thành Gia Định. Hộ đốc Vũ Duy Ninh, người làng An Đại Huyện
Chương Nghĩa đã tổ chức quân đội triều đình chống Pháp. Thành Gia Định thất
thủ, Vũ Duy Ninhtuẫn tiết. Ông là vị tướng cao cấp của triều đình hy sinhh đầu
tiên ở Lục tỉnh khi quân Pháp xâm lược nước ta.
Đến
những năm 70 của thế kỷ XIX, thực dân Pháp đẩy mạnh xâm lược trên toàn cõi Việt
Nam .
Tháng 11 – 1873, Pháp đánh Bắc Kỳ lần nhất, Trương Quang Đản chỉ huy quân thứ
Bắc Ninh đã đem quân về Hà Nội đánh Pháp nhưng triều đình đã ra lệnh bãi binh.
Khi thực dân Pháp đánh Bắc Kỳ lần hai (1882), Bố chính Hà Nội là Phan văn tuyển
(quê ở Quảng Ngãi) cùng Tổng đốc Hoàng Diệu tổ chức quân đội triều đình chiến
đấu anh dũng để bảo vệ thành. Tháng 8 – 1883, thực dân Pháp tấn công vào cửa
Thuận An, cửa ngõ kinh đô Huế phía Đông, Trương Đăng Để đã chỉ huy quân đội
chiến đấu quyết liệt bảo vệ Thái Dương đài.
Phe
chủ chiến ở triều đình Huế do Tôn Thất Thuyết đứng đầu chuẩn bị công cuộc chống
Pháp, các sĩ phu Quảng Ngãi đang làm quan hoặc chưa ra làm quan hay đã về hưu
đều hưởng ứng lời hiệu triệu và chủ trương của phe chủ chiến, tổ chức Nghĩa hội
để tập hợp lực lượng chống Pháp. Cử nhân Lê Trung Đình, Tú tài Nguyễn Tự Tân đã
đem quân đánh chiếm tỉnh thành Quảng Ngãi (13/7/1885) để chuẩn bị cơ sở chống
Pháp khi chúng kéo đến. Sự kiện đó mở đầu cho phong trào hưởng ứng chiếu Cần
Vương trong cả nước. Nguyễn Duy Cung , Án sát tỉnh Bình Định, cùng với nghĩa
quân đánh chiếm tỉnh thành (17/7/1885). Bị giặc bắt, dụ dỗ, mua chuộc, ông đã
từ chối “Thà làm ma trung nghĩa, không theo lũ bội vong” và lấy máu mình viết
bài “Bình thành cáo thị”, kêu gọi
nhân dân, văn thân, sĩ phu tiếp tục chống Pháp rồi tuẫn tiết. Cái chết của
Nguyễn Duy Cung cùng với bài hịch của cụ là “một trận đánh, một trận đánh với
tinh thần quyết tử”[7], đã góp
phần thúc đẩy phong trào Cần Vương ở các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định nói riêng,
Nam Trung Kỳ nói chung phát triển.
Bước
sang thế kỷ XX, khi tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây bắt đầu du nhập vào nước
ta, các sĩ phu yêu nước Quảng Ngãi đã nhanh chóng tiếp thu trào lưu tư tưởng
mới và có vai trò quan trọng, góp phần làm chuyển biến phong trào yêu nước ở
địa phương.
Tú
tài Lê Ngung, tú tài Trần Kỳ Phong, tú tài Nguyễn Tuyên, Cử nhân Nguyễn Thụy –
những người đã từng tham gia cuộc khởi nghĩa của Cử nhân Nguyễn Vịnh (12 –
1894), đã hăng hái bước vào cuộc vận động cứu nước theo con đường dân chủ tư
dản. Có người đã ra làm quan nhưng bỏ về itham gia hoạt động theo con đường cứu
nước mới như Cử nhân Lê Đình Cẩn (Huấn đạo), Cử nhân Nguyễn Mai (Tri huyện). Có
người đã từng là đối tượng của phong trào yêu nước, nhưng đã thức tỉnh, từ
quan, cống hiến phần đời còn lại cho dân, cho nước. Đây là trường hợp của Cử
nhân Lê Khiết. Ông đã từng theo Nguyễn Thân đàn áp phong trào Cần Vương ở Trung
Kỳ, làm quan đến chức Bố chính Nghệ An, nhưng sớm tỉnh ngộ, tham gia phong trào
yêu nước và bị thực dân Pháp xử chém.
Sự
chuyển biến của các sĩ phu yêu nước ở Quảng Ngãi theo con đường dân chủ tư sản
là do tác động của phong trào yêu nước của nhân dân và sự nhận thức đúng đắn
của họ. Phan Bội Châu và Huỳnh Thúc Kháng đã đánh giá các sĩ phu yêu nước Quảng
Ngãi là những người “nhiệt thành”, có “dũng khí”, có khả năng “đảm đương được
gánh nặng”[8],
“một long hy sinh vì việc nước”, “trăm lần bẻ không co”[9].
Tiêu biểu như cử nhân Lê Đình Cẩn. Lúc Lê Khiết, Nguyễn Bá Loan bị tử hình, chờ
đến lượt mình, ông đã hô lớn: “Làm trai có chết như thế mới tươi tốt”[10].
Do những hoạt động tích cực của các sĩ phu yêu nước tiến bộ, phong trào Duy Tân
ở Quảng Ngãi diễn ra rất sôi nổi, dẫn đến những cuộc đấu tranh trực diện mạnh
mẽ với kẻ thù vào những năm 1908, 1916. Vì vậy, Quảng Ngãi là một trong những
địa phương có phong trào phát triển mạnh về quy mô, phong phú về tính chất và
hình thức đấu tranh.
Mặc
dù phong trào yêu nước do họ lãnh đạo lần lượt bị thất bại, song các nhà khoa
bảng Quảng Ngãi trên con đường chống Pháp đã để lãi những tấm gương hy sinh bất
khuất, trong sang của những người con núi Ấn, sông Trà, đúng như Gia Long đã
từng nhận xét: “Quảng Ngãi đa nghĩa nhân”.
Xuất
phát từ chủ nghĩa yêu nước, một số nhà khoa cử ở Quảng Ngãi đã chuyển sang lập
trường yêu nước gắn liền với chủ nghĩa xã hội, góp phần làm chuyển biến phong
trào yêu nước ở địa phương theo con đường cách mạng vô sản. Tiêu biểu là tú tài
Trần Kỳ Phong. Bọn mật thám Pháp ở Quảng Ngãi đã nhận xét rằng: “Trần Kỳ Phong
– một nhân vật rất nguy hiểm, lúc sống là mối lo của nhà nước, khi chết là cái
cớ tuyên truyền của cộng sản”[11].
Truyền
thống yêu nước của các nho sĩ Quảng Ngãi dưới thời Nguyễn còn sống mãi với các
thế hệ sau ở tỉnh nhà.
ß
Trường CĐSP Quảng Ngãi
[1] Quốc sử
quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, tập II, NXB KHXH, Hà Nội, 1970, tr.
355 – 356.
[2] Phan Đại
Doãn, Nguyễn Ngọc Quỳnh…một số vấn đề về quan chế triều Nguyễn, NXB Thuận Hóa,
Huế, 1997.
[3] Trương
Đăng Quế đậu Hương cống năm Gia Long thứ 18 (1819), Nguyễn Bá Nghi đậu Phó bảng
năm Minh Mệnh thứ 13 (1832).
[5] Cao Xuân
Dục…Đại Nam nhất thống chí, quyển 6, Tỉnh Quảng Ngãi, Nhà Văn Hóa – Bộ Quốc gia
Giáo dục Việt Nam Cộng hòa xuất bản, Sài Gòn, 1964, tr. 96.
[7] Chu
Thiên Đặng Huy Vận…Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX, NXB Văn Học, Hà Nội,
1976, tr. 22.
[8] Phan Bội
Châu niên biểu. Trích Phan Bội Châu toàn tập, tập 6, NXB Thuận Hóa, Huế, 1990,
tr. 127.
[9] Huỳnh
Thúc Kháng – Thi tù tùng thoại, NXB Nam Cường, Sài Gòn, 1951, tr. 173
[10] Huỳnh
Thúc Kháng – Vụ chống thuế ở Trung kỳ năm 1908, NXB Ích Trị, Huế, 1946.
[11] Hồng
Sinh –Hồng Phú, Sao sang Sông Trà, Hội Văn nghệ Nghệ An xuất bản, 1975, tr.
119.
No comments:
Post a Comment