Thursday, May 12, 2016

HÀN MẠC TỬ (Nguyễn Trọng Trí, 1912 – 1940)


Nhà thơ, người đứng đầu “trường thơ loạn” (còn gọi là “thơ điên”) trong phong trào thơ mới, còn có bút hiệu Phong Trần, Lệ Thanh, sinh ngày 22.9.1912 ở làng Lệ Mỹ, huyện Đồng Lộc, tỉnh Đồng Hới (Quảng Bình) trong một gia đình công chức theo Công giáo. Thân sinh mất sớm, ông về sống với người anh là Nguyễn Bá Nhân ở Qui Nhơn. Vừa đi học vừa tập làm thơ và tỏ ra đặc sắc, mới 15 tuổi, với bút hiệu Minh Duệ Thi, ông thường xướng họa với anh mình. Bài thơ diễm tình đầu tiên Gửi chim nhạn xuất hiện trong thời gian ấy:
… “Suốt năm canh mộng hồn mê mỏi,
Chỉ một lòng son muốn giải bày.
Này nhạn! Ta còn quên chút nữa
Con tim non nớt tặng nàng đây!”.
Ông theo học ở trường nhà dòng Pellerin Huế trong khoảng hai năm (1928-2930) và làm thơ với bút hiệu mới là Phong Trần, gửi đăng trên báo “Phụ Nữ Tân Văn” ở Sài Gòn. Sau một thời gian làm việc ở Sở Đạc điền, ông vào Sài Gòn kiếm sống, đổi bút hiệu là Lệ Thanh và trúng giải nhất trong một cuộc thi thơ hồi đó. Trong những năm 1934-1935, ông cộng tác với báo “Sài Gòn”, giữ mục văn chương. Sau ông chủ trương ra tờ “Công Luận Văn Chương” và viết bài cho các tạp chí “Trong Khuê Phòng”, “Đông Dương Tạp Chí”, “Tân Thời”. Lúc đó phong trào “thơ mới” bắt đầu nở rộ trên thi đàn với Thế Lữ, Phạm Huy Thông, Vũ Đình Liên… Ban đầu Hàn Mạc Tử cũng chỉ trích thơ mới nhưng sau chính ông lại đưa vào thơ mình những lời thơ táo bạo, siêu thực. Mở đầu cho bước chuyển đó là tập Gái quê được xuất bản năm 1936 với bút hiệu mới Hàn Mạc Tử:
“Em có ngờ đâu trong những đêm,
Trăng ngà giải bóng mặt hồ êm,
Anh đi thơ thẩn như ngây dại,
Hứng lấy hương nồng trong áo em.”
Từ những bài thơ Đường luật cổ kính, gò bó trong khuôn thước, Hàn Mạc Tử đã chuyển hẳn sang thơ mới, đưa vào thơ chất lãng mạn của tuổi thanh xuân.
“Ô kìa! bóng nguyệt trần truồng tắm,
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe…”
Người ta nói rằng ông không quan tâm đến một cái gì khác ngoài thơ và tình bạn. Lúc ở Sài Gòn, Hàn Mạc Tử thuê chung với mấy người bạn một căn gác tồi tàn ở đường Espagne (Lê Thánh Tôn). Trong nhà không có đồ đạc gì cả, đêm đến trải giấy báo ra sàn làm chỗ ngủ. Muốn làm văn, làm thơ thì ánh sáng của những ngọn đèn đường chiếu vào. Có bao nhiêu tiền, Hàn Mạc Tử đều chia sớt cho bạn bè, còn bản thân chỉ có một bộ quần áo, có khi mặc suốt tháng không thay đổi. Những năm đó, người ta thường thấy Hàn Mạc Tử đầu đội chiếc mũ kiểu “Ca-nô-chê” quen thuộc, với áo sơ mi dài tay rộng thùng thình và chiếc quần có giải đeo nhàu nát và cáu bẩn, đi lang thang khắp đường phố Sài Gòn. Một người bạn từng sống với Hàn Mạc Tử nhận xét về ông như sau: “Đời của Trí có thể tóm lại trong hai đặc điểm: ở bẩn không thể tưởng và không bao giờ mất lòng bạn”.
Cuối năm 1936 ông phát hiện ra mình có triệu chứng của bệnh phong liền thuê một ngôi nhà ở Gò Bồi cách Qui Nhơn khoảng 15 cây số, ra sống ở đó và tuyệt giao với bạn bè, đồng thời tìm cách chữa bệnh. Trong khi đó thì Mộng Cầm, người yêu của anh đi lấy chồng. Chán nản, thất vọng, Hàn Mạc Tử đã sáng tác những bài thơ bày tỏ tâm trạng của mình, sau tập hợp và in thành tập thơ Đau thương (1938). Những bài thơ phản ánh nỗi ám ảnh về bệnh tật, sự mê sảng của một thể xác lẫn linh hồn đau đớn cùng cực:
“Người trăng ăn vận toàn trăng cả,
Gò má riêng thôi lại đỏ hườn…
… Gió rít từng cao trăng ngã ngửa,
Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô.
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy,
Sáng dậy điên cuồn mửa máu ra”.
(Say trăng)
Trong thời gian chữa bệnh, Hàn Mặc Tử viết Còn chơi giữa mùa trăng, một tập văn trong đó ông định nghĩa, nhận định và nói về việc làm thơ của mình: “Mỗi lần tôi làm được một bài thơ là héo hắt đi một ít ở tâm hồn, và xác thịt cũng hao mòn đi. Khi nào tôi òa lên khóc, hay gào thét như người điên, lúc bấy giờ tôi mới làm thơ được”. Cuối năm 1938, Lê Mai hiệu Mai Đình, một phụ nữ mê thơ Hàn Mặc Tử đã đến với ông. Hàn Mặc Tử sống với Lê Mai được mấy tháng thì đành phải chia tay vì tài chính eo hẹp. Trong thời gian sống chung, Hàn Mặc Tử đã tặng Lê Mai những vần thơ yêu đương tha thiết và cả lòng biết ơn của ông:
“Đây Mai Đình tiên nữ ở Vu Sơn,
Đêm mộng xuống gieo vào muôn song mắt!
Nàng, ông nàng hai tay ta ghì chặt,
Cả bài thơ êm mát lạ lùng thay!...
…”Quý như vàng trọng như ngọc trên đời,
Mai, Mai, Mai là Nguyệt Nga tái thế”.
Chia tay, nhưng không quên nhau. Mai Đình vẫn gửi về cho Hàn Mặc Tử những dòng thương cảm:
“Hôm nay sáng tỏ cung Hằng
Khiến lòng em nhớ đêm rằm bên anh
Hãi hùng, em sợ trăng thanh
Vắng em, anh lại tư tình cùng trăng”
Với những bức thư của Mai Đình, Hàn Mặc Tử ghép thành bài thơ Thao thức. Sau Mộng Cầm và Mai Đình, một bóng hồng khác lại đến với ông. Bạn của Hàn Mặc Tử, nhà thơ Trần Thanh Địch, nhắc đến một thiếu nữ Huế với tên gọi Thương Thương. Nhưng kỳ thực Thương Thương lúc đó chỉ mới 12 tuổi, là cháu của Thanh Địch. Hình ảnh cô gái Huế tên Thương Thương đã ám ảnh Hàn Mặc Tử và khơi dậy ở ông lòng yêu đời, giúp cho ông thêm nguồn sinh lực và sáng tác nhiều thơ, những bài thơ này sau tập hợp thành tập thơ Thương Thương sau đổi thành Cẩm Châu Duyên. Ông còn viết hai kịch thơ là Duyên kỳ ngộQuần tiên hội mang tính chất một thế giới chiêm bao. Riêng Quần tiên hội, Hàn Mặc Tử mới sáng tác được đoạn đầu thì phải bỏ dỡ vì gia đình của Thương Thương cho Hàn Mặc Tử biết rõ sự thật. Ông chấm dứt không nhắc đến Thương Thương nữa.
Năm 1940, bệnh tình của Hàn Mặc Tử trở nên trầm trọng. Người ta đưa ông vào trại phong Qui Hòa và mất tại đó ngày 20.11.1940 lúc đó ông mới 28 tuổi.

V.H.L.

No comments:

Post a Comment