Cho đến nay,
vấn đề nguyên nhân thất bại của tư tưởng canh tân ở Việt Nam nửa sau thế kỷ XIX, vẫn còn
nhiều ý kiến khác nhau [1],[2],[3],[4],[5],[6].
Có người cho vì chưa có cơ sở để thực hiện, có người cho vì sự bảo thủ của vua
quan nhà Nguyễn. Sự thục là thế nào?
Đến những năm
40 – 50 của thế kỷ XIX các đế quốc Anh, Pháp đổ xô sang châu Á để tìm kiếm thị
trường, chiếm thuộc địa: Philippin đã trở thành thuộc địa của Tây Ban Nha, Mã
Lai đã thuộc vào thực dân Anh. Inđônêxia rơi vào tay Hà Lan…chỉ còn lại 4 nước
phải dương đầu với tham vọng của đế quốc là Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản và
Xiêm. Tầm vóc và hoàng cảnh của mội nước khác nhau nhưng họ cùng đứng trước một
bài toán: làm gì để giữ được nền độc lập dân tộc.
Ở Nhật Bản,
năm 1867, Minh Trị lên ngôi. Đầu năm 1868, ông thành lập chính phủ mới và long
trọng tuyên bố cai trị theo ý nguyện của nhân dân và đề ra cương lĩnh hành động
gốm những nội dung: Tổ chức quốc hội, kêu gọi tất cả mọi hành động vì quyền lợi
dân tộc; mọi người không phân biệt quân, dân có thể thực hiện nguyện vọng của
mình và phát triển tài năng; xóa bỏ các tục lệ xấu, mọi người đều bình đẳng
trước pháp luật; học tập nước ngoài để xây dựng đất nước; công nghiệp hóa đất
nước, mở rộng ngoại giao với nước ngoài. Mục tiêu của Minh Trị là độc lập quốc
gia và từng bước tiến lên bình đẳng với các quốc gia phương Tây.
Những năm
tiếp theo, chính phủ Nhật Bản thi hành hàng loạt các biện pháp thửa nhận quyền
tư hữu ruộng đất, tự do nội thương, ngoại thương. Các phong trào chống duy tân
nổi lên đều bị dẹp. Từ năm 1885, bỏ Hội đồng Hoàng gia và lập nội các theo kiểu
đại nghị. Ngày 11/2/1889, công bố hiến pháp, quyết định thành lập hai viện lập
pháp: Hạ viện và Thượng viện. Tính đến đây, quá trình duy tân đã trải qua 21
năm.
Minh Trị duy
tân năm 1868 mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển và được coi như là cuộc
cách mạng tư sản, nhưng cuộc cách mạng này không phải do giai cấp tư sản tiến
hành. Vì giai cấp tư sản Nhật lúc đó còn non trẻ và có mối quan hệ chặt chẽ và
phụ thuộc Tokugawa, thỏa hiệp với phong kiến. Cuộc cách mạng Minh Trị được tiến
hành “với đội tiên phong là giới trí thức đã thức tỉnh trước tình hình thế
giới”[7],
và “được ủng hộ bởi các Samurai cấp thấp”[8].
Nhưng yếu tố có tính chất quyết định là người đứng đầu nước Nhật – Minh Trị là
ông vua có kiến thức, thức thời, hiểu thời thế và kiến quyết thực hiện chủ trương
canh tân đất nước, nắm được toàn quyền, đánh bại được phái bảo thủ.
Vương quốc
Xiêm thời bấy giờ cũng như Việt Nam: quân sự, kinh tế đều yếu, bị thực dân
phương Tây – Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Đức, Mỹ, Anh dòm ngó. Anh đòi
Xiêm mở cửa để buôn bán, truyền đạo và lập lãnh sự. Pháp sau khi chiếm 3 tỉnh
miền Đông Nam Kỳ, đặt chế độ bảo hộ ở Campuchia năm 1863 và mưu toan đánh Xiêm.
Xiêm nằm trong gọng kìm của hai tên đế quốc Anh – Pháp.
Trước tình
hình đó, vua MôngKut (Rama IV), một vị anh quân có học thức, biết tiếng Anh và
chữ La tinh, am hiểu văn hóa và lịch sử phương Tây, có tầm nhìn xa trông rộng,
đã ký với Mỹ, Anh, Pháp…các hiệp ước về thương mại và ngoại giao, với những nội
dung cơ bản như sau: Đồng ý cho các nước Anh, Pháp, Mỹ lập lãnh sự ở Băng Cốc
và công dân Anh, Mỹ, Pháp đều được hưởng quyền tài phán, tự do truyền đạo Thiên
chúa (mặc dù Thái Lan theo đạo Phật), tự do buôn bán và nộp thuế 3% cho Thái
Lan…
Việc ký hiệp
ước với các nước như vậy sẽ không còn cớ để các nước tấn công Xiêm và biến các
nước tư bản phương Tây trở thành đối trọng của nhau, kiềm chế lẫn nhau.
Năm 1868,
Chulalongkorn lên nối ngôi cha. Ông là người chịu ảnh hưởng sâu sắc của phương
Tây, có kiến thức rộng, lại chịu tham quan nhiều nước ở châu Âu và láng giềng
để học tập kinh nghiệm. Ông tích cực thực hiện chính sách của vua cha cho các
thành viên của Hoàng gia đi học các nước châu Âu mời các chuyên gia phương Tây
vào làm cố vấn để xây dựng hạ tầng cơ sở, giáo dục và ngoại giao. Trước sự tham
lam của Anh – Pháp, vua Chulalongkorn đã chịu bỏ quyền lợi của Xiêm ở Lào,
campuchia và bắc Mã Lai để giữ độc lập cho đất nước.
Sự nghiệp
canh tân đất nước của Xiêm thắng lợi rõ ràng là do những người lãnh đạo cao
nhất có học thức, có tầm nhìn xa trông rộng, nắm được xu thế của thời cuộc,biết
mình biết người, biết hy sinh cái nhỏ, cái không thể giữ được để giữ cái lớn,
kiên quyết mở cửa, cải cách và thực hiện chính sách ngoại giao khôn khéo.
Trung Quốc là
một quốc gia lớn, nhưng dưới thời nhà Thanh vẫn là một bước lạc hậu về kinh tế,
quân sự và thi hành chính sách bế quan tỏa cảng. Vào những năm 40 của thế kỷ
XIX các nước tư bản Âu – Mỹ ráo riết biến Trung Quốc thành thị trường tiêu thụ
hàng hóa của chúng, tư tưởng duy tân của Lâm Tắc Từ và học trò của ông ngày
càng tỏa rộng và lôi cuốn nhiều trí thức yêu nước. Ngay một số đại thần nhà
Thanh như tăng Quốc Phiên, Lý Hồng Chương cũng chủ trương học tập phương Tây.
Vào những năm
sau thế kỷ XIX, các nước tư bản ép Mãn Thanh ký tiếp các hiệp ước bất bình
đẳng. Độc lập của Trung Quốc bị uy hiếp nghiêm trọng. Trước tình hình đó nhân
sĩ yêu nước ra sức mở rộng phong trào duy tân, đòi bảo đảm độc lập dân tộc, đòi
học khoa học phương Tây, phát triển chủ nghĩa tư bản.
Khi
chiến tranh Trung – Nhật xẩy ra (1894 – 1895) Trung Quốc thất bại, nhà Thanh ký
Điều ước Mã Quan (1895) cắt đất cho Nhật Bản (cắt Đài Loan, Bành Hồ và Liêu
Đông), để cho Triều Tiên độc lập và bồi thường cho Nhật hai trăm triệu lạng bạc
(tương đương hai năm thu nhập của Trung Quốc lúc bấy giờ). Vì sao Nhật Bản làm
được điều đó? Khang Hữu Vy cho rằng là do Nhật biết học, biết thay đổi cách trị
nước theo tâm pháp. Khang Hữu Vy và nhiều người khác cùng với 1000 cử nhân đệ
thư lên vua Quang tự đề nghị canh tân đất nước.
Tháng 6 năm
1898 vua Quang Tự mời Khang Hữu Vy làm cố vấn thực hiện một loạt cải cách. Cuộc
cải cách này kéo dài 103 ngày (11/6 đến 21/9/1898). Kết cục phong trào thất
bại, vua Quang Tự và nhiều nhiều người khác bị bắt giam, một số bị chém, không
ít người phải bỏ ra nước ngoài.
Nguyên nhân
thất bại của phong trào canh tân ở Trung Quốc năm Mậu Tuất (1898) trước hết và
chủ yếu là vua Quang Tự - người đứng đầu chủ trương cải cách, chủ dựa cảu phái
cải cách không nắm được trọn quyền điều hành triều đình (thực quyền nằm trong
tay Từ Hy Thái hậu) và trình độ tổ chức non kém, không loại trừ được phái bảo
thủ trước và trong thời kỳ tiến hành cải cách.
Từ thực tế
Nhật Bản, Xiêm La và Trung Quốc, chúng ta có thể rút ra mấy điểm sau:
1. Cuộc cách
mạng ở Nhật, những cải cách ở Xiêm và Trung Quốc đều không do sức mạnh của quần
chúng, mà là những hành động của giới cầm quyền với đội tiên phong là những tri
thức đã thức tỉnh trước tình hình mới.
2. Cuộc cách
mạng ở Nhật, những cải cách ở Xiêm, Trung Quốc đều không phải là do sự xuất
hiện của một giai cấp mới, giai cấp tư sản và mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản
với những quan hệ phong kiến trói buộc nó.
3. Sữ sụp đổ
của chính quyền Tokugawa ở Nhật Bản, sự cải cách vua Môngkut và Chulalongkorn
(Xiêm) và vua Quang Tự (Trung Quốc) là do khoảng cách kinh tế, khoảng cách về
tiềm lực giữa thực dân xâm lược với người chống xâm lược, vì bảo vệ độc lập của
đất nước minh.
4. Sự thành
công của công cuộc canh tân ở Nhật Bản, Xiêm, sự thất bại ở Trung Quốc cho
chúng ta thấy vai trò của người đứng đầu nhà nước, nếu nhà vua có hiểu biết
thức thời, có tầm nhìn xa trông rộng, kiên quyết và có thực quyền thì đó là
điều kiện quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định đối với canh tân đất nước.
Từ tình hình
thực tế các nước trong khu vực, chúng ta có thể nhận rõ hơn nguyên nhân thất
bại của tư tưởng canh tân, và phong trào đề nghị canh tân đất nước ở Việt Nam
nửa sau thế kỷ XIX.
Vào giữa thế
kỷ XIX, tư tưởng canh tân và phong trào đề nghị canh tân diễn ra trên cơ sở xã
hội, điều kiện kinh tế còn yếu. Song, chúng tôi cho rằng, đây không phải là
nguyên nhân cơ bản, quyết định dẫn đến sự thất bại của tư tưởng canh tân và
phong trào đề nghị canh tân ở Việt Nam . Vì hai nước Nhật và Xiên có
phong trào canh tân diễn ra mạnh mẽ và thắng lợi, nhưng những cơ sở kinh tế xã
hội cũng rất còn kiêm tốn. Ở Nhật Bản, tư sản xuất hiện nhưng chưa có vai trò
gì trong cuộc canh tân đất nước của Minh Trị. Trong lời giới thiệu tác phẩm “Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa”
của Giáo sư người Nhật bản Yoshiharu Tshuboi, Giáo sư Trần Văn Giàu viết: “đầu
thế kỷ XIX, Việt Nam, Nhật Bản hình như chưa cách biệt nhau là mấy, đến Tự Đức
thì thời kỳ này ở Việt Nam đại để cũng là thế kỷ của Minh Trị ở Nhật Bản, hai
nước đều đối diện với một loạt vấn đề. Thế mà trước bão táp Âu – Mỹ, nước Nhật
vẫn giữ vững độc lập và nhanh chóng trở thành cường quốc ngang hàng với các
nước mạnh Âu – Mỹ, còn Việt Nam
thì suy đốn không thể cứu vãn nổi, bị Pháp lấn áp, gặm dần, nuốt trỏng, rốt cục
trở thành thuộc địa, xiềng chân gông cổ cho đến nổi cái tên Việt Nam cũng bị
biến mất khỏi bản đồ thế giới”.
Vì sao diễn
ra tình trạng này ở Việt Nam .
Nguyên nhân sâu xa nào có phải là tất yếu chăng?
Xét về thời
gian nếu tính từ khi Pháp bắn phát đại bát đầu tiên vào Đà nẵng năm 1847 đến
khi triều đình Huế thất bại hoàn toàn (1883) là 38 năm, nếu tính từ 1 tháng 9
năm 1858, thực dân Pháp chính thức xâm lược Việt Nam và đến khi triều đình Huế
đầu hàng là 25 năm, nếu tính từ 1863, năm xuất hiện những cải cách của Nguyễn
Trường Tộ là 20 năm. Với một khoảng thời gian như vậy, nếu triều đình có quyết
tâm cao thì vẫn tiến hành được công cuộc canh tân đất nước (Ninh Trị trong vòng
21 năm, từ 1868 đến 1889, đã biến Nhật Bản thành một nước tư bản).
Theo chúng
tôi nguyên nhân quyết định sự thất bại của tư tưởng canh tân và phong trào canh
tân ở Việt Nam
nửa sau thế kỷ XIX là do triều đình Huế và người đứng đầu là Tự đức, bảo thủ,
không nhìn xa trông rộng, không có quyết tâm canh tân. Nếu như Minh Trị (Nhật),
Môngkut và Chu lalongkorn (Xiêm La), Quang Tự
(Trung Quốc) là những ngọn cờ của phong trào canh tân, là chỗ dựa của phái duy
tân thì vua Tự Đức mặc dù đã cho rằng Nguyễn Trường Tộ “đã khám phá ra sự tình
của đất nước”, nhưng ông lại do dự, thiếu quyết tâm, nửa vời.
Có lúc vua Tự
Đức đã phái Nguyễn Trường Tộ, Đinh Văn Điền cùng với giám mục Gauthier sang
Pháp mua tàu, máy móc, sách khoa học, kỹ thuật, và đã mua được một số máy móc
thiên văn, máy điện thoại, các dụng cụ cho người in, máy phát điện, một số sách
về hàng hải, điện khí…nhưng những máy móc đều để hư hỏng.
Ví như năm
1876, trước đề nghị của các đình thần, Tự Đức đã bỏ lệnh cấm buôn bán bằng
đường biển với nước ngoài và trong vòng một năm, năm 1877 các tỉnh Hà Nội – Hải
Dương – Bình Định đã nộp cho triều đình 5,5 triệu quan tiền và 4425.000 lạng
bạc tiền thuế. Nhưng đến năm sau lại đóng cửa.
Vua Tự Đức đã
nắm bắt được tình hình đất nước, nhưng trước những đề nghị canh tân dồn dập của
Nguyễn Trường Tộ thì ông lại cho rằng: “Nguyễn Trường Tộ quá tin vào những lời
hắn đề nghị. Nếu cần phải canh tân thì ta cứ làm từ từ. Tại sao lại thúc giục
nhiều thế đến khi mà những khuôn phép cũ của ta cũng rất đầy đủ để điều khiển
quốc gia rồi”[9].
Nếu Tự Đức là
người quyết tâm canh tân đất nước thì ông không chỉ tập hợp được những người có
tư tưởng canh tân xung quanh mình mà với một người nắm trọn quyền hành cai trị
đất nước (khác với Quang Tự - Trung Quốc) thì tư tưởng canh tân sẽ ảnh hưởng
không nhỏ trong quan lại nói riêng và giới trí thức nói chung lúc bấy giờ và
khi đó vai trò của trí thức phong kiến Việt Nam sẽ khác đối với cuộc canh tân
đất nước.
Nguyễn Trường
Tộ, Đặng Huy Trứ và nhiều người khác trong chương trình canh tân đất nước của
mình đều không đặt vấn đề thay đổi thể chế chính trị và chỉ đề nghị làm trong
sạch bộ máy quan lại, tuyển chọn quan lại, luôn cho “ngôi vua là quý, chức quan
là trọng” vì họ muốn thông qua triều đình đứng đầu là vua Tự đức lại thiếu tầm
nhìn xa trông rộng, không thức thời, không quyết tâm trong đổi mới, thiếu sự
quyết đoán thì tư tưởng canh tân, xu hướng canh tân ở nước ta thất bại là lẽ
đương nhiên.
ß
Đại học Vinh
[1] Tạp chí
Lịch sử quân sự, số 1 tháng 2 năm 1992
[2] Viện
khoa học Xã hội – sở Văn hóa thông tin thành phố Hồ Chí Minh: Nguyễn Trường Tộ
với vấn đề canh tân đất nước. Trung tâm nghiên cứu Hán – Nôn, tr 308 – 309.
[3] Trương
Bá Cấm: Nguyễn Trường Tộ - con người và di thảo. NXB thành phố Hồ Chí Minh,1988,
tr. 97
[4] Đỗ Hòa
Hối. Mấy suy nghĩ tìm hiểu thêm về lý do thất bại của việc thực hiện tư tưởng
canh tân dưới triều Nguyễn. Chương trình nghiên cứu triều Nguyễn – triều Nguyễn
những vấn đề lịch sử tư tưởng và văn học, số 3, ĐHSP Huế, 1994, tr. 61.
[5] Trương
Bá Cầm: Nguyễn Trường Tộ - con người và di thảo, NXB thành phố Hồ Chí Minh,
1988, tr. 96
[6] Đinh
Xuân Lâm – Lịch sử Cận đại Việt Nam :
Một số vấn đề cần nghiên cứu, NXB Thế giới, Hà Nội, 1998, tr. 51
[7] Michio
Morischima – Tại sao Nhật Bản thành công? NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1991, tr.
107
[8] Michio
Morischima – Tại sao Nhật Bản thành công? NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1991, tr.
115
[9] Dẫn theo
Nguyễn Khắc Đạm: Nguyễn Tri Phương đánh
giặc, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam ,
Hà Nội, 1998, tr. 115
No comments:
Post a Comment