Tuesday, May 17, 2016

CÁC VUA TRIỀU NGUYỄN ĐỐI VỚI TÍN NGƯỠNG CỔ TRUYỀN CỦA VIỆT NAM VÀO NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX


                                   
PGS. TS. Lương Kim Thoa[1]

Trong bức tranh tôn giáo Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ XIX, chúng ta có thể thấy có mấy nét nổi bật sauu:
Thứ nhất, ở Việt Nam cho đến giữa thế kỷ XIX cùng một lúc đã tồn tại nhiều tôn giáo ngoại nhập như: đạo Khổng, đạo Lão, đạo Phật và đạo Thiên chúa, song không có một tôn giáo nào chiếm địa vị độc tôn trong đời sống tôn giáo của nhân dân ta[2]. Đặc biệt là ba tôn giáo có cùng chung nguồn gốc từ châu Á là đạo Phật (xuất phát từ Ấn Độ), đạo Khổng, đạo Lão (có nguồn gốc từ Trung Quốc), tuy du nhập vào Việt Nam ở những thời điểm sớm muộn khác nhau, nhưng giữa chúng lại có sự hòa quyện, tiếp thu lẫn nhau, tạo thành cái khung cảnh “tam giáo đồng nguyên”.
Và, “mặc dù cả ba tôn đạo này cùng tồn tại ở Việt Nam trong nhiều thế kỷ, song trên thực tế chúng ta không có một đạo nào trong ba đạo đã tạo ra được một ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống tâm linh của người Việt Nam[3]
Thứ hai, sinh hoạt tín ngưỡng phổ biến của tuyệt đại đa số người Việt Nam ở nủa đầuthế kỷ XIX là sự thờ cúng tổ tiên, các anh hùng dân tộc, những người có công lao với cộng đồng, các thần linh…trong đó có sự thờ cúng tổ tiên là mang tính đặc trưng nhất[4]
Vậy đứng trước hiện diện của các tín ngưỡng truyền thống ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX, các vua triều Nguyễn đã có cái nhìn và ứng xử như thế nào?
Trước hết, chúng ta nói tới tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên – một tín ngưỡng cổ truyền của người Việt Nam. Thực ra, sự thờ cúng tổ tiên không phải là một tín ngưỡng riêng có ở Việt Nam mà nó có mặt ở nhiều quốc gia trên thế giới, là “nét chung của nhiều nước Đông Á (Trung Quốc, Triều Tiên), khách quan mà nói đây là dạng tín ngưỡng có chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán”[5]. Đây cũng là biểu hiện tôn giáo sớm nhất của nhân loại. Cơ soở của tục thờ cúng tổ tiên có nguồn gốc từ sự tin tưởng rằng, linh hồn của những người đã chết không bị mất đi, vẫn tồn tại đâu đó và có mối liên hệ với người đang sống, chăm sóc, phù hộ cho họ cuộc sống bình yên, thịnh vượng; linh hồn đó được coi như vị thần hộ mệnh của mỗi gia đình. Những người đang sống bày tỏ sự biết ơn và duytrì mối liên hệ với tổ tiên bằng sự thờ cúng trong các ngày lễ, tết, giáp, chạp. Theo PGS. Nguyễn Văn Kiệm thì sinh hoạt có tính chất tôn giáo này mang tính đặc trưng nhất, vì nó mang tính phổ cập nhất: “Trừ những người Việt theo Thiên chúa giáo, có thể nói gần như 100% người Việt Nam ở các tầng lớp trên cũng như dưới, giàu cũng như nghèo, ở miền bắc cũng như ở miền Nam, ai nấy cũng thấm nhuần tín ngưỡng này”[6]. Minh chứng cho điều này là ở Việt Nam, ngay từ khi dựng nhà ở, người ta đã giành một giant rang trọng nhất, thường là gian giữa, đặt bàn thờ với hương án, bát nhang, bài vị để thờ cúng ông bà tổ tien với những ngày giỡ trong năm, đặc biệt trong những ngày tết. Sinh hoạt tâm linh chủ yếu trong và trang trọng ấy đã ăn sâu vào máu thịt của mỗi người dân Việt và nó được duy trì từ thế hệ này qua thế hệ khác, không hề phai lạt trước mọi biến cố lịch sử,ngay cả trước sự du ngập của nhũng tôn giáo mới vào Việt Nam như đạo Khổng, đạo Lão, đạo Phật.
Tục thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam mang tính phổ cập đến nỗi một giáo sĩ phương Tây Masson, trong một bức gửi cho M. Fery, Cha bề trên của chúng viện Nancy đề ngày 2/7/1828 có nhận xét: “Có một sự thờ cúng phổ biến nhất, ngay cả đối với các nhà nho, đó là sự thờ cúng tổ tiên. Tất cả mọi người đều có sự gắn bó khăng khít với sự thờ cúng này và đó chính là cái đã rang buộc một số lượng lớn người bên lương vào thờ ngẫu tượng, vì không có cách gì từ bỏ việc thờ cúng tổ tiên”[7]. Vậy tại sao có hiện tượng đặc biệt này? Phải chăng đó là vì: “Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên gắn liền với sự củng cố quan hệ gia đình, họ hàng. Quan hệ gia đình, họ hàng vốn là quan hệ tự nhiên theo huyết thống được nhà nước quân chủ phong kiến duy trì, được họ thuyết Nho giáo cỗ vũ khẳng định phát triển mạnh mẽ trong thế kỷ XIX”[8].
Nhận thức rõ tầm quan trọng và ý nghĩa sâu xa của tín ngưỡng cổ truyền của người dân Việt Nam, thái độ và sự ứng xử của các vua triều Nguyễn tập trung chủ yếu vào việc giữ gìn tín ngưỡng truyền thống, trước hết là sự thờ cúng tổ tiên, sau nữa là các anh hùng dân tộc và những người có công với dân, với nước, các vị thần linh khác.
Do yêu cầu xây dựng và củng cố chinh quyền nhà nước, yêu cầu tổ chức quản lý xã hội, các vua nhà Nguyễn chủ trương đề cao Nho học và lấy Khổng giáo làm hệ tư tương chính trị chủ đạo. Việc thờ Khổng Tử và các học trò danh tiếng của ông tất yếu được nhà nước chú trọng. Nhà Nguyễn đã cho tu bổ và dựng thêm các đền thờ gọi chung là Văn Miếu. Ở kinh đô Huế có Văn thánh miếu, hàng năm đích thân nhà vua đến làm lễ tưởng niệm, các tỉnh cũng bắt buộc phải xây dựng một nhà văn miếu ở lỵ sở. Ở các phủ, huyện cũng có các Văn miếu nhỏ đặt ở phủ lỵ hay huyện lỵ phủ để các quan lại sở tại làm lễ. Thậm chí đến các làng xã, những nơi có nhiều người học Nho, đỗ đạt, người ta cũng xây dựng một ngôi miếu nhỏ gọi là Văn chỉ để hàng năm các vị văn thân, chức sắc địa phương đến tế lễ[9]. Xuất phát từ việc coi Khổng giáo là tôn giáo độc tôn, các vua triều Nguyễn cực kỳ coi trọng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên vì rằng chữ “Hiếu” là một trong những phạm trù đạo đức chính yếu của Khổng giáo. Trong sách Trung Dung có nói: “Thở cha mẹ lúc chết rồi cũng như còn sống ấy là hiếu rất mực vậy”. Sách Luận Ngữ cũng nhấn mạnh rằng: “Coi trọng tang lễ cha mẹ, chăm lo cúng giỗ tổ tiên thì các đức của dân trở nên hậu”. Thấm nhuần sâu sắcc tư tưởng, đạo đức Khổng giáo và ý nghĩa của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, các vua triều Nguyễn cũng hiểu rằng: “Nhà vua tận hiếu là tấm gương tốt cho phong hóa, đề cao đạo đức gia đình, từ đó mà giữ cho xã hội được cân bằng, trật tự”.
Điều này được thể hiện rõ trong thái độ của Nguyễn Ánh (Gia Long) trong những lần bàn luận với Pigneau de Beháine (Bá Đa Lộc) về vấn đề tín ngưỡng. Ông đã thẳng thắn phê phán thái độ thiếu khoan dung của đạo Thiên chúa đối với tín ngưỡng truyền thống của Việt Nam. Nguyễn Ánh lấy làm ngạc nhiên khi ông thấy con ông là Hoàng tử Cảnh sau khi từ Pháp trở về không làm lễ ở nhà thờ tổ tiên. Bản thân vua Gia Long có thể chưa hẳn đã tin vào sự tồn tại bất tử của linh hồn, song ông lại cho rằng việc thờ cúng những người đã khuất, nhất là thờ cúng tổ tiên, ông bà cha mẹ lại là việc làm cần thiết: “Linh hồn không thể trở lại, rằng con cháu không được hưởng gì bằng thờ cúng, nhưng ông coi đó như một nghi lễ để chứng thực sự tưởng nhớ mà con cháu cần phải gìn giữ về tổ tiên của mình”[10].
Trong khi tranh luận với Piegneau de Beháine, nhà vua nói rằng: “Khi tôi đến các buổi cúng lễ này, tôi tự nhủ rằng: Nếu tổ tiên tôi còn sống, tôi muốn làm tất cả mọi bổn phận cần thiết đối với các Người. Để chứng tỏ rằng những tình cảm đó là chân thành và hiệu quả, tôi muốn làm y như thể tổ tiên tôi đang còn sống. Tôi biết rằng họ không còn nữa và những gì tôi làm chẳng có ích cho ai, nhưng tôi muốn thể hiện cho mọi người thấy rằng tôi không thể quên tổ tiên và đem lại cho thần dân của tôi một mẫu mực về lòng hiếu thảo"[11]. Rõ ràng, những suy nghĩ và quan niệm trên đây của Gia Long về chữ hiếu, về sự thờ cúng tổ tiên là một tấm gương sáng cho thần dân noi theo, mà chữ “hiếu” lại là một nền tảng của chữ “trung”. Vua tận hiếu với ông bà tổ tiên là cơ sở để nhắc nhở thần dân trung thành với triều đình.
Trong khi Pigneau de Bháine coi tục thờ cúng tổ tiên của người Việt là một “tục đầy sự mê tín”. Theo ông: “nếu tất cả người dân Đàng Trong cũng hiểu biết như nhà vua và chỉ thực hiện điều đó như một lễ tục hoàn đời thường thì các giáo dân cũng có thể thực hiện mà không sợ phạm vào đức tin của mình”[12]. Nguyễn Ánh cũng nói với Pigneau de Bháine rằng: “Mong dao tục ấy có thể hòa hợp với đạo Thiên chúa”[13]. Nhà vua rất sợ quần thần và dân chúng hiểu lầm ông đã quên mất ông bà, tổ tiên và đi theo đạo khác. Nên nói: “ Nếu tôi lại còn hủy bỏ nghi lễ này, tôi sẽ làm tăng thêm sự nghi ngở mà quần thần vốn đã có về cách suy nghĩ của tôi. Và cũng có thể họ tưởng tôi đã cải giáo, họ sẽ ít gắn bó với tôi”[14]. Và ông còn giải thích thêm ý nghĩa của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, cần được duy trì: “Tôi đã cấm ma thuật, chiêm tinh, đoán số và tôi cũng coi việc thờ ngẫu tưỡng là dai và kỳ cục. Nhưng tôi kiên trì thờ cúng ông bà theo cách mà tôi đã trình bày với ngài, bởi tôi coi đó như là một trong những cơ sở của nền giáo huấn của chúng tôi. Nó gợi cho con trẻ ngay từ khi còn ấu thơ lòng hiếu thảo đối với cha mẹ và đem lại cho các bậc cha mẹ cái quyền uy mà nếu thiếu nó, họ không thề ngăn chặn tốt những sự hỗn loạn trong gia đình”[15].
Trong khi tranh luận với Pigneau de Bháine về vấn đề tín ngưỡng, vua Gia Long không hề có lời nào bài bác Thiên chúa giáo, song lập trường của ông đối với sự thờ cúng tổ tiên, ý nghĩa thiêng liêng, tầm quan trọng về mặt chính trị và xã hội của tín ngưỡng truyền thống này là rất kiên định. Hơn thế nữa việc thờ cúng tổ tiên theo nghi lễ của bậc vua chúa còn mang lại uy thế cho dòng họ nhà vua, đề cao uy quyền của vương triều. Lễ tế các tôn miếu được liệt vào Đại tế (lễ tế lớn) của nhà nước. Vì thế, ngay sau khi lên ngôi được một năm. Năm 1803, vua Gia Long cho lập Nguyễn miếu ở Thanh Hóa, đất phát tích của dòng họ Nguyễn và Đinh, Lê. Mỗi khi Bắc tuần, các vua Nguyễn đều thân hành đến cúng tế. Nguyễn miếu đã được nhiều lần xây mới, tu bổ. Các điển lệ thờ cúng được hoàn thiện từ thời Gia Long cho đến các vua sau này.
Năm 1804 “vua Gia Long cho dựng Thái miếu (thờ Nguyễn Hoàng) miếu Triệu Tổ (thờ Ngyễn Kim) miếu Hoàng khảo (sau đổi thành miếu Hưng Tổ thờ Nguyễn Phúc Luân, người thân sinh vua Gia Long) ở kinh đô Huế. Mỗi năm có 5 kỳ tế hưởng xuân, hạ, thu, đông cùng tế chạp cuối năm. Mỗi khi có việc quốc gia đại sự, nhà vua thân hành hoặc sai hoàng tử tước công đến tế ở các miếu”[16]. Cũng như Gia Long, vua Minh Mệnh rất coi trọng tín ngưỡng truyền thống này và ông cảm nhận rằng linh hồn của tổ tiên rất linh thiêng, đã ngầm giúp ông trong những lúc hiểm ngảo, có lần vua Minh Mệnh đã nói với thị thần Trương Đăng Quế, rằng: “Ta trườc nhân hai lần bị cảm mạo, nằm chiêm bao thấy Tiên đế ngự triều, lòng ta xiết bao thương cảm…từ đó chứng bệnh liền khỏi. Dẫu là công hiệu do việc dùng thuốc, nhưng cũng nhờ anh linh của Tiên đế ở trên trời ngầm giúp đỡ nên mới chóng khỏi được như thế"[17]. Cảm tạ ân đức và sự phù trợ của người đã sinh ra mình, vua Minh Mệnh chodựng miếu Thế tổ (thờ Gia Long), việc thờ cúng tổ tiên dòng họ nhà vua càng được kiện toàn về mọi mặt. Cùng với việc truy phong tước hiệu từ các vị tiền bối ở Thanh Hóa cho đến 9 vị Chúa có công khai phá vuàng đất Đàng Trong, hệ thống miếu mạo, lăng tẩm tương ứng cũng được xây dựng tu bổ liên tục ở Thanh Hóa, ở Quảng Nam và tập trung dày đặc, có hệ thống nhất là ở kinh đô Huế. Năm Minh Mệnh thứ 17, nhà vua còn chođúc 9 đỉnh đồng lớn đặt trước sân Thế miếu, mỗi đỉnh có tên gọi riêng mang một chữ trong miếu hiệu của các chúa Nguyễn (Cao, Nhân, Chương, Anh, Nghị, Thuần, Tuyền, Dự, Huyền) trên mỗi đỉnh có hình trạm nổi thể hiện vũ trụ, thiên nhiên, đất nước Việt Nam.
Nhìn từ góc độ tôn giáo thì những việc trên đây của vua Gia Long và Minh Mệnh như việc xây dựng Thái miếu vào năm 1804, việc xây dựng miếu Thế tổ… để thờ cúng dòng họ Nguyễn, việc xây dựng các lăng tẩm cho các vua triều Nguyễn là thể hiện sự chân thành của họ đối với tín ngưỡng cổ truyền của dân tộc. Nhìn từ góc độ chính trị, việc duy trì và cổ vũ thờ cúng tổ tiên cũng chính là nhằm củng cố vững chắc tôn ty trật tự và sự ổn định của gia đình theo lễ giáo Khổng Mạnh, một tế bào quan trọng cấu thành trật tự phong kiến ở định[18].
Quan niệm thờ cúng tổ tiên dưới triều Nguyễn còn được mở rộng tới việc thờ cúng các vị vua chúa của các triều đại trước, các anh hùng dân tộc và những người có công với nước, với dân.
Với tư cách là môt triều đại kế nối, đồng thời để nhấn mạnh tính chính thống của triều đại mình, các vua triều Nguyễn “coi sóc nơi thờ tự của các đế vương thời trước bằng cách liệt vào điển thờ của nhà nước, tu bổ đền miếu, cấp tiển, ruộng thờ, phu phiếu. Theo lệ hàng năm hay những dịp đại khánh đều sai quan đến tế tự”[19]. Tại kinh đô Huế có đền thờ vua Lê Thánh Tông dựng từ trước khi Nguyễn Ánh lên ngôi, song do chiến tranhloạn lạc, việc thờ cúng bị gián đoạn. “Năm Gia Long thứ 8, vua đã chọn đất dựng lại miếu thờ”[20].
Năm Minh Mệnh thứ 4 (năm 1823), triều đình cho lập đền thờ Lịch đại đế vương ở kinh đô Huế để thờ cúng các vị vua có công với nước, chủ yếu thờ Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lý Thái Tổ, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Lê Thái Tổ, Lê Thánh Tông…sau lại bổ sung vào đền thờ này những vị anh hùng có công với nước như Nguyễn Bặc nhà Đinh, Lê Phụng Hiểu, Lý Thường Kiệt nhà Lý, Tô Hiến Thành, Trần Quốc Tuấn, Trần Nhật Duật, Phạm Ngũ Lão nhà Trần, Trương Hán Siêu, Đinh Liệt, Lê Xí nhà Lê…Đến năm 1825, Minh Mệnh lại ra lệnh cho bộ Lễ lập danh sách những người có công lao ở các dinh, trấn và lập đền thờ họ ở các địa phương.
Thờ Thành Hoàng ở đình làng là đặc trưng tín ngưỡng độc đáo của người Việt, Cùng với việc thờ cúng Thành hoàng, dân làng còn tổ chức lễ hội. Tùy theo thần tượng mà lễ hội có những màu sắc khác nhau. Thành hoàng là anh hùng cứu nước thì lễ hội thường có diễn xướng đánh giặc, thành hoàng là thần nông nghiệp thì có hội diễn cầu mưa.
Việc ban cấp sắc phong thành hoàng là biểu hiện sự cố gắng “thống nhất” tinh thần giữa triều đình và làng xã, giữa chính quyền và thần quyền.
Gia Long lên ngôi và những vua kế nghiệp đều tái lập sự chi phối, khống chế các Thành hoàng làng xã từ Bắc đến Nam. Sắc thờ Thành hoàng của các làng trong cả nước phải được triều đình phong cấp lại. Vua mới là chủ mới của các thần. Triều đình tiến hành can thiệp vào tục thờ này bằng cách tái cấp thần sắc cho các Thành hoàng và loại bỏ một số “dâm thần”, “ngụy thần”[21]. Năm 1809 Gia Long ban sắc thần cho các làng xã để thờ làm Thành hoàng. Năm 1814 lại một lần nữa xem xét lại các sắc thần để phong tiếp. Từ đó hình thành lệ triều đình Huế thường xuyên xét duyệt các đơn vị phong thầncủa các làng xã, đồng thời cũng xét duyệt việc sắp xếp thứ hạng các thành hoàng làng theo cấp độ công lao làm ba phẩm trật: Hạ đẳng thần, Trung đẳng thần và Thượng đẳng thần. “Đến thời Tự Đức, cả Việt Nam đã có trên 13.000 đạo sắc thần. Đấy là chưa kể các vị thần chưa được sắc phong”[22]. Sự thống nhất của chính quyền và thần quyền, càng làm tăng thêm chính quyền và thần quyền, càng làn tăng thêm chính chuyên chế của nhà nước quân chủ, nhà vua không chỉ là người coi sóc phần “xác” mà còn là Giáo chủ coi sóc phần “hồn” của thần dân.
Việc thờ cúng các vị anh hùng dân tộc và những người có công với nước của nhà Nguyễn, như PGS. Nguyễn Văn Kiệm đã nhận xét, không chỉ là lễ tục đời thường mà nó còn hàm chứa một ý tưởng tôn giáo nhất định. Ví như khi nhận việc tu sửa đền thờ Mai Hắc Đế, vua Minh Mệnh nói với Nội các rằng: “Nhà nước tôn thờ các thần song, núi cốt để cầu phúc cho dân. Vả lại đền ấy đã giúp nước giúp dân có nhiều linh ứng: gần đây cả tỉnh Nghệ An giặc cướp im lặng, người và vật đều bình an, mưa hòa, nắng thuận, lúa tốt; dẫu là nhờ phúc trời thương, mà cũng là do sức thần phù hộ rộng khắp” (Đại Nam thực lục, chính biên, tập XVII, tr. 97)
Là một triều đại trọng dụng Nho giáo, lấy Nho giáo làm tư tưởng độc tôn thì một số nghi lễ cúng tế mà các nhà Nho thường cổ vũ cũng được các triều đình phong kiến coi trọng. Chẳng hạn như việc cúng tế trời, đất và các vị thần linh. Tiêu biểu cho hình thức cùng này là tục tế giao ở kinh đô.
Tế giao có liên hệ với quan niệm của đạo Nho về Trời, Thần và mệnh Trời. vua là con Trời thi hành mệnh Trời, được sự phù trợ của Trời và của chư Thần. Tục tế giao do nhà nước cử hành có từ thời nhà Lý. Trong Vũ trung tùy bút, Phạm Đình Hổ viết “Đàn Tế giao ở nước ta mới lập ra từ thời nhà Lý đến đời Lê đã trùng tu lại…Đời Lê cứ 3 ngày tết Nguyên đán chọn ngày nào tốt thì làm lễ Tế giao… Cứ lệ thì trước vị Thượng đế, Địa kỳ bày lễ chay: tam tài và hoa chuối tiêu, còn đôi bên tả hữu hành lang thì cứ thứ đệ bớt dần, đồ lễ không có ngọc liệu sát sinh gì cả”[23].
Đến thời Nguyễn, Đàn Nam giao được Gia Long cho xây dựng ở Huế năm 1806. “Đàn được xây dựng lộ thiên ở phía Nam kinh thành Huế và lễ tế giao được cử hành vào thượng tuần tháng 2 (âm lịch). Nghi lễ tế giao của triều Nguyễn rất phức tạp, tốn kém và linh đình. Đồ đại lễ không còn là đồ chay như trước mà là tế tam sinh. Khi đại lễ được cử hành, vua vẫn là chủ tế, các hoàng thân, đại thần làm bồi tế chấp sự đứng hai bên, có tấu nhạc, múa Bát dật và hát 9 khúc nhạc tế trong 9 giai đoạn của buổi lễ. Vào ngày tế giao, dân chúng kinh thành nô nức kéo nhau đi xem đông như hội”[24]. Lễ tế giao ở Huế vẫn được duy trì ngay cả khi nước ta trở thành thuộc địa của thực dân Pháp.
Lễ tế Nam giao có thể coi là một buổi tế thần linh có tính chất tổng hợp, một buổi lễ đặc trưng nhất cho tín ngưỡng thờ cúng Trời, Đất, thần linh nhằm cầu khẩn cho cả nước bình an, vô sự. Ngoài ra, một nghi lễ khác của triều đình phong kiến được nhà nho nước ta khuyến khích và cỗ vũ là việc cúng tế các vị thần có công trạng và có nhiều quyền năng đối với sự phát triển nghề nông, một nghề đã từng coi là gốc của thiên hạ. Các vị thần mà nhân dân ta thờ cúng và cũng được triều đình phong kiến coi trọng và phản ánh rõ sinh hoạt của dân tộc ta từ cổ xưa tối nay. Trước hết là các vị nhiên thần như Sơn thần, Thủy thần biểu tượng cho khí thiêng song núi. Các vua nhà Nguyễn cũng cho xây dựng đền thờ các vị nhiên thần như “đền thờ Hà Bá, đền thờ Sơn Thần, Thiên Thụ, miếu thờ Hỏa thần, miếu Nam Hải Long vương. Đến năm 1826 nhà nước lại dựng thêm các miếu Phong bá, Vũ sư để thờ thần gió, thần mưa. Năm 1839, nhà Nguyễn cho xây đền thờ núi Hải Vân và sai các quan đi tế các thần thiên ở trong nước. Năm 1840 sai các quan đi tế đền thờ Thục An Dương Vương ở Nghệ An, Trấn Vũ tôn thần ở Hà Nội, Phù Đổng thiên vương ở Bắc Ninh…cầu cho vua mạnh khỏe, được mùa, an dân”[25].
Bên cạnh các nhiên thần, còn các nhân thần. Các nhân thần ấy có thể là người có công đối với sự phát triển của nghề trồng lúa nước, sự sinh sôi của giống nòi, cũng có thể là ông tổ khai sáng nghề thủ công truyền thống hoặc dựng làng lập ấp. Nhưng trong các nhân thần được thờ thì nổi bật hơn cả vẫn là các vị thần vốn là những anh hùng liệt nữ có công cứu nước giúp dân (như đã trình bày ở phần trên).
Sự thờ cúng tổ tiên – đó là một trong những sinh hoạt tôn giáo phổ biến nhất, đặc trưng nhất của tuyệt đại đa số của dân Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ XIX. Nếu hiểu theo nghĩa rộng của sự thờ cúng tổ tiên thì không chỉ có sự thờ cúng ông bà, cha mẹ, những người đã khuất trong gia đình, dòng họ mà còn bao gồm cả việc thờ Trời, Đất, thờ người có công sáng lập nước, thờ người có công dụng nước và giữ nước, có công với cộng đồng làng xóm và cả các thần lonh có liên quan đến cuộc sống thường nhật cảu người. Tín ngưỡng cổ truyền này đã ăn sâu vào trái tim khối óc của người Việt Nam, nó duy trì từ đời sống tín ngưỡng tôn giáo của người Việt Nam đến nỗi không ít các tôn giáo đang có mặt ở Việt Nam, dù nội sinh hay ngoại nhập, đều mang dấu ấn của đạo thờ cúng tổ tiên. Đúng như Phan Văn Đồng đã viết trong tác phẩm “Văn hóa và đổi mới”: “Từ xưa dân tộc Việt Nam không có tôn giáo theo nghĩa thông thường của nhiều nước khác. Còn nói tôn giáo là thờ cúng thì mọi người đều thờ cúng ông bà, mỗi họ đều thờ cúng tổ tiên, làng thì thờ cúng Thành hoàng và các bậc anh hùng cứu nước, các tổ phụ ngành nghệ, các danh nhân văn hóa. Từ góc độ văn hóa, tôi thấy đây là một đặc trưng đáng trọng của con người Việt nam, ở chỗ nó là sự tưởng nhớ những người có công trong việc tạo lập cuộc sống ngày nay của mọi gia đình và làng xóm”. GS. Đặng Nghiêm Vạn cũng nhận xét: “Đất nước còn thờ vua Hùng, người có công dựng nước như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói. Nay việc công nhận ngày giỗ Hùng Vương như quốc lễ là hợp lòng dân”[26] .
Đứng trước sự hiện diện của tín ngưỡng tôn giáo cổ truyền của dântộc Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ XIX, các vua triều Nguyễn đã có một thái độ ứnh xử thích hợp, hài hòa. Một mặt, nhà Nguyễn vẫn đề cao Nho giáo, lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng chính thông của mình, song mặt khác, các vua triều Nguyễn vẫn tôn trọng, duy trì tín ngưỡng thờ cúng tổ ti6en,khéo kết hợp những nội dung của Nho giáo với tín ngưỡng truyền thống, kết hợp sự thờ cúng ở cung đình như Tế Giao, tế Văn Miếu và Thái Miếu với sự thờ cúng cha mẹ tổ tiên ở gia đình, thờ Thành hoàng ở làng xã, thờ các vị anh hùng dân tộc có công với dân với nước và thờ các vị thần linh khác. Thái độ ứng xử của các vua triều Nguyễn đối với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiênn “thể hiện sự thống nhất gần như hoàn toàn giữa tín ngưỡng của Nhà nước với tín ngưỡngcủa nhân dân góp phần quan trọng vào sự gắn bó về mặt sinh hoạt văn hóa với tôn giáo giữa nhân dân và nhà nước.[27]




[1] Khoa sử trường ĐHSP Hà Nội
[2] Nguyễn văn Kiệm: Chính sách tôn giáo của nhà Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX. Tạp chí NCLS số 6 (tháng XI - XII),1993, tr. 21-23
[3] Nguyễn văn Kiệm: Chính sách tôn giáo của nhà Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX. Tạp chí NCLS số 6 (tháng XI-XII),1993, tr. 21.
[4] Nguyễn văn Kiệm: Chính sách tôn giáo của nhà Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX. Tạp chí NCLS số 6 (tháng XI-XII),1993, tr. 23.
[5] Phan Đại Doãn: Vài nét về tín ngưỡng và tôn giáo Việt Nam thế kỷ XIX, Tạp chí NCLS số 3 (tháng V-VI), 1996, tr. 24
[6] Nguyễn văn Kiệm: Chính sách tôn giáo của nhà Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX. Tạp chí NCLS số 6 (tháng V – VI ),1993, tr. 24

[7] Nguyễn Văn Kiệm sưu tầm và dịch: Một vài tư liệu về tín ngưỡng của người Việt Nam ở thế kỷ XIX qua một số thư của giáo sĩ phương Tây. NCLS số 3 (tháng III-IV), 1996, tr. 65.
[8] Phan Đại Doãn – Bài đã dẫn: NCLS số 3 (tháng V – VI), 1996, tr. 23.
[9] Nguyễn Văn Kiệm – Bài đã dẫn, NCLS số 6 (tháng XI – XI) 1993, tr. 25.
[10] Nguyễn Văn Kiệm: Nguyễn Ánh (Gia Long) đối với đạo Thiên chúa, tạp chí Xưa và Nay số 59, tháng 1/1999, tr. 29
[11] Nguyễn Văn Kiệm: Nguyễn Ánh (Gia Long) đối với đạo Thiên chúa, tạp chí Xưa và Nay số 59, tháng 1/1999, tr. 29
[12] Nguyễn Văn Kiệm: Nguyễn Ánh (Gia Long) đối với đạo Thiên chúa, tạp chí Xưa và Nay số 59, tháng 1/1999, tr. 29
[13] Nguyễn Văn Kiệm: Nguyễn Ánh (Gia Long) đối với đạo Thiên chúa, tạp chí Xưa và Nay số 59, tháng 1/1999, tr. 29
[14] Nguyễn Văn Kiệm: Nguyễn Ánh (Gia Long) đối với đạo Thiên chúa, tạp chí Xưa và Nay số 59, tháng 1/1999, tr. 29
[15] Nguyễn Văn Kiệm: Nguyễn Ánh (Gia Long) đối với đạo Thiên chúa, tạp chí Xưa và Nay số 59, tháng 1/1999, tr. 29
[16] Võ Phương Lan: Các chính sách tín ngưỡng tôn giáo triều Nguyễn, đăng trong Kỷ yếu hội thảo khoa học “Giáo hội và nhà nước tại Viện nghiên cứu tôn giáo 22/5/2002”
[17] Dại Nam thực lục, chính biên, tập XXII, tr. 317.
[18]Nguyễn Văn Kiệm: Sự du nhập của đạo Thiên chúa giáo vào Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, hội khoa học Lịch sử Việt Nam, trung tâm UNESCO – bảo tồn sự phát triển văn hóa dân tộc. Hà Nội, 2001, tr. 184,
[19] Võ Phương Lan: Bài đã dẫn, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Giáo hội và Nhà nước…”
[20] Võ Phương Lan: Bài đã dẫn, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Giáo hội và Nhà nước…”
[21] Phan Đại Doãn: Bài đã dẫn. NCLS số 3, tháng V – VI, 1996, tr. 25.
[22] Trương Đức Sự: Nho giáo Việt Nam. Một số chuyên luận tham khảo. Tập II, tr. 36. Tài liệu dành cho học viên lớp “Bồi dưỡng ngắn hạn về tôn gió” do Viện nghiên cứu Tôn giáo thuộc Trung tâm KHXH và NVQG ấn hành.
[23] Nguyễn văn Kiệm: Chính sách tôn giáo của nhà Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX. Tạp chí NCLS số 6 (tháng XI-XII),1993, tr. 26.
[24] Nguyễn Đức Sự: Tài liệu đã dẫn, tr. 133
[25] Nguyễn Đức Sự: Tài liệu đã dẫn, tr. 133 - 134
[26] GS. Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên): Những vấn đề lý luận và thực tiễn tôn giáo ở Việt Nam. NXB KHXH Hà Nội, 1998
[27] Nguyễn Văn Kiệm: Bài đã dẫn, NCLS số 6 (tháng XI – XII) 1993, tr. 27

No comments:

Post a Comment