Thanh
Hóa là tỉnh có truyền thống hiếu học và nhiều người đỗ đạt cao. Truyềnthống
hiếu học ở Thanh Hóa đã góp phần tạo nên truyền thống hiếu học Việt Nam .
Song vào thời Nguyễn, truyền thống này được phát triển như thế nào?
Hệ
thống giáo dục thờ Nguyễn lấy trấn, tỉnh làm cơ sở vì vậy việc học hành có phần
được mở rộng. Ở Thanh Hóa, ngay từ đầu triều Nguyễn, đã có chức Đốc học để coi
việc học hành. Ở các phủ đặt chức Giáo thụ ở các huyện đặt chức Huấn đạo; ở các
Tổng có tổng giáo để lo việc học hành trong địa hạt.
Ở
cấp tỉnh, trưởng tỉnh được xây dựng ở phía Nam các tỉnh ngay sau khi triều
Nguyễn được thiết lập, thuận lợi cho việc học hành. Ở những huyện lớn như Hậu
Lộc, Hoằng Hóa, Quảng Xương, Nông Cống, Yên Định đã đặt các chức Huấn đạo; ở
các tổng thí bảo cử những người văn hay chữ tốt, có đạo đức, đứng ra dạy học
trò mới học. Ngoài ra, ở các trường làng quê còn có nhiều trường tư, do các
thầy đồ mở nhằm dạy dỗ con em trong làng xã.
Về
tổ chức dạy học, Đốc học dạy trường tỉnh, chuẩn bị cho môn đồ thi Hương và tổ
chức thi Hương. Giáo thụ và Huấn đạo ở các trường phủ huyện dạy học trò dự khảo
hạch hàng năm và dự thi Hương do triều đình mở.
Dưới
triều Nguyễn giáo dục có sự chuyển tiếp nên đến thời kỳ cuối có bổ sung thêm
Pháp ngữ và quốc ngữ. Sau chiến tranh thế giới lần nhất, nền giáo dục khoa cử
theo Hán học xem như cáo chung. Các kỳ thiNho học bãi bỏ hoàn toàn. Khoa thi
Hương năm 1918 là khoa thi cuối cùng ở trường thi Thanh Hóa và cũng là khoa thi
Nho học cuối cùng ở Việt Nam .[1]
Trong
tình hình việc học hành, thi cử có nhiều biến động nhưng Thanh Hóa vẫn là tỉnh
có truyền thống học hành, đỗ đạt cao; dưới thời Nguyễn, số học sinh ở Thanh Hóa
vẫn đông. Đáng chú ý là thời kỳ này ở Thanh Hóa có nhiều hình thức khuyến học
phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội của từng vùng.
Ở
cấp tỉnh, việc tổ chức thi Hương tại Thanh Hóa được xem là một việc làm tích
cực, có tác dụng khuyến khích việc học hành thi cử.
Vào
thời Nguyễn, mỗi năm ở Thanh Hóa có tới vài ngàn sĩ tử tham dự kỳ thi Hương,
nhưng vì không có trường thi, nên thí sinh phải vào tận trường Vinh (Nghệ An)
để ứng thi. Do điều kiện đi lại khó khăn, số thí sinh tham dự các kỳ thi hương
ngày càng ít. Trước tình hình này, Đốc học Thanh Hóa đã xin với triều đình cho
mở kỳ thi Hương tại Thanh Hóa và đã được triều đình chấp nhận. Việc tổ chức thi
Hương tại tỉnh đã tạo điều kiện và khuyến khích việc học ở địa phương. Kết quả
là từ khi có trường thi Thanh Hóa, số thí sinh đậu Hương cống ở Thanh Hóa vào
loại nhiều, so với các tỉnh khác[2].
Đây là một việc làm có ý nghĩa rất lớn; sự kiện này đã được các sĩ tử ở Thanh
Hóa dựng bia để ghi nhận[3].
Ở
Thanh Hóa, dưới triều Nguyễn, Hội tư văn có vai trò rất quan trọng trong việv
đề cao và khuyến khích việc học hành ở các xã thôn.
Hội
tư văn Thanh Hóa ra đời từ thời Hậu Lê[4]
nhưg đến thời Nguyễn, Hội tư văn Thanh Hóa mới phát triển, trở thành hiện tượng
phổ biến ở các làng xã. Theo số liệu điều tra bước đầu, năm huyện miền xuôi
Thanh Hóa đã có tới hơn 100 Hội tư văn được thànhlập, nhất là dưới triều Thành
Thái và Tự Đức[5].
Hội
văn tự ra đời ở các làng quê, tập hợp những người có học vấn, đạo đức, có uy
tín được nhân dân kính nể. Hội tư văn thường chú ý vào các việc: Đề cao các bậc
hiền tài đỗ đạt, khuyến khích, động viên việc học hành, xây dựng (hoặc tu bổ)
Văn Thánh.
Trong
số các Hội tư văn ở Thanh Hóa dưới triều Nguyễn, nhiều Hội đã có những đóng rất
thiết thực thực vào khuyến khích, động viên con em mình học tập, tiêu biểu là
Hội tư văn ở xã Quảng Chiếu huyện Đông Sơn.
Xã
Quảng Chiếu, huyện Đông Sơn là một địa phương có truyền thống hiếu học. Hội tư
văn đã có những hình thức rất sáng tạo trong việc khuyến khích học tập. Để biểu
dương những người đỗ đạt, trọng đãi người hiền tài, ngoài việc xây dựng văn
chỉ, dựng bia ghi tên tuổi những người đỗ đạt cao, hội tư văn đã có những hình
thức khuyến khích những người đỗ đạt cao bằng cách thưởng cho những người đỗ
cao ở các cấp học. Theo quy định của hội: trong xã người thi đỗ Tiến sĩ thì
được văn hộ sửa lễ mừng với số tiền 12 quan tiền; người đỗ Cử nhân thì được
mừng 6 quan tiền, đối với người đỗ Tú tài thì được mừng 4 quan; những qui định
này đã được khắc vào bia dựng ở văn chỉ của làng để mọi người đều biết và trở
thành lệ làng. Nhờ những biện pháp khuyến khích, nên ở đây đã có nhiều người đỗ
đạt cao.
Ngoài
việc đề ra biện pháp khen thưởng cho những người đỗ đạt, hàng năm Hội tư văn
còn tổ chức các buổi bình văn, đọc thơ, khảo thí nhằm kiểm tra học lực của con
em trong làng.
Nét
đặc biệt ở Thanh Hóa là vai trò của Bảng môn đình trong việc khuyến khích học
tập.
Bảng
môn đình ở Thanh Hóa được xây dựng ở xã Hoằng Lộc – huyện Hoằng Hóa. Theo lời
truyền văn thì Bảng môn đình được xây dựng từ thời Lê, nhưng thực sự có vai trò
quan trọng dưới triều Nguyễn. Dưới triều Nguyễn Bảng môn đình được tu sửa và mở
rộng.
Bảng môn đình cũng như đình của các làng khác, là
nơi sinh hoạt căn hóa cộng đồng trong các dịp lễ hội. Nét đặc sắc là nó được sử
dụng chủ yếu vào những hoạt động khuyến học. Bảng môn đình ở Hoằng Lộc, nơi các
nho sinh giúp nhau học tập để chờ kỳ ứng thi. Đáng chú ý của Bảng môn đình
(Hoằng Lộc) là ở vị trí chỗ ngồi. Theo quy định của làng chỗ ngồi ở chốn đình
trung được sắp xếp theo nguyên tắc: Ai đỗ đạt cao thì ngồi chiếu trên, ai đỗ
đạt thấp, mặc dù quan chức to vẫn phải ngồi hàng chiếu dưới, nhằm tôn vinh việc
đỗ đạt.
Theo
lệ làng, thì Bảng môn đình có 3 hàng chiếu: ở hàng giữa phía trên là chiếu cạp
điều dành cho những người có học vị Tiến sĩ; chiếu dưới cạp xanh dành cho những
người đỗ Hương cống; chiếu bên phải dành cho các vi sinh đồ (tú tài).
Chiều
bên trái dành cho những nho sinh, sĩ tử chưa thi đỗ hoặc những người trong làng
văn nhưng không có học vị. Cả ba hàng chiếu này đều lấy tuổi cao làm trọng.
Phép vua thua lệ làng nên không ít vị quan giữ chức trọng của triều đình, khi
về làng vẫn phải ngồi chiếu dưới vì không đỗ đạt cao.
Cách
quy định này đã tạo nên đầu óc ganh đua, khuyến khích trong các thế hệ; họ cố
gắng học hành đỗ đạt để có chỗ ngồi xứng đáng ở chốn đình trung của làng.
Vào
thời Nguyễn ở Thanh Hóa còn có rất nhiều hình thức khuyến học khác rất đáng
được biểu dương.
Ở
Hoằng Lộc (Hoằng Hóa) có lệ: trong những dịp hội làng những người đã có công
nuôi chống, con ăn học, đỗ đạt cao đều được nhận quà biếu của làng. Lệ này
không dành cho những người lấy chồng khi chồng đã đỗ đạt. Theo quan niệm của
người dân thì những người phụ nữ lấy chồng khi chồng đã đỗ đạt xem như không có
công lao gì trong việc đỗ đạt của chồng; chỉ những người tần tạo làm ăn nuôi
chồng ăn học mới xứng đáng được nhận quà biếu của làng. “Miếng” giữa làng không
dâng bao nhiêu nhưng vẫn bao hàm ý nghĩa khuyến học. Ngày nay chúng ta đã dành
nhiều phần thưởng cho những học sinh nghèo vượt khó, nhưng chưa hề có phần
thưởng cho những người mẹ vượt khó nuôi con ăn học và đỗ đạt. Việc làm xưa rất
đáng để chúng ta suy nghĩ.
Ở
nhiều nơi còn có sang kiến sử dụng một phần ruộng công của làng là ruộng “học
điền”. Ruộng này giao khoán cho một số người làm, sản phẩm sẽ được dùng làm quỹ
trợ cấp cho con em những nười nghèo ăn học. Hạt gạo của làng lấy ra từ ruộng
học điền đã khuyến khích việc học hành của con nhà nghèo. Đây là một cách gây
quỹ khuyến học ở các làng thuần nông, khác hẳn cách gây quỹ khuyến học ngày
nay.
Trên
đây là một số hình thức khuyến học được áp dụng ở Thanh Hóa dưới triều Nguyễn.
Nhờ những hình thức khuyến học này nên việc học hành thi cử ở Thanh Hóa dưới
triều Nguyễn đã đạt một số kết quả đáng kể. Có những hình thức đến nay đã lạc
hậu, nhưng có những hình thức nếu được cải tiến cho phù hợp với điều kiện mới
chắc chắn vẫn có giá trị thực tiễn.
ß
Trường ĐH Hồng Đức
[1] Địa chí
Thanh Hóa, NXB VHTT, 2000
[2] Theo con
số thống kê chưa đầy đủ số học sinh đỗ kỳ thi Hương (Hương cống) ở Thanh Hóa
thời Nguyễn là 310 người.
[3] Ở thành
phố Thanh Hóa hiện còn một tấm bia ghi lại sự việc này gắn liến với địa danh:
Ngã ba bia.
[4] Danh sĩ
Thanh Hóa và việc học thời xưa, NXB Thanh Hóa 1995.
[5] Danh sĩ
Thanh Hóa và việc học thời xưa, NXB Thanh Hóa 1995.
No comments:
Post a Comment