Tuesday, May 10, 2016

TÂY NGUYÊN DƯỚI THỜI NHÀ NGUYỄN


TS Phan Văn Béß

Tây Nguyên được xem là nóc nhà của Đông Dương, nằm trên cao nguyên Nam Trung bộ rộng lớn. Diện tích 53.471 km vuông, từ tây sang đông, Phía bắc Tây Nguyên giáp với Quảng Nam, Quảng Ngãi, phía đông giáp với Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa; phía Nam giáp Bình Thuận, Ninh Thuận; phía tây giáp hai nước Lào và Campuchia. Rõ ràng vị trí địa lý, chiến lược này gắn Tây Nguyên với vùng đồng bằng Trung Bộ và thuận đường giao thông với khu vực Đông Nam Bộ. Điều kiện tự nhiên ấy (“địa lợi”) tạo nên mối giao lưu kinh tế,văn hóa, để trên cơ sở đó tiến tới hình thành sự đoàn kết, chiến đấu (“nhân hoa”). Hai yếu tố “địa lợi”, “nhân hòa” này đã quyết định những thắng lợi của các tộc người trong lao động sản xuất và chiến đấu bảo vệ quê hương buôn làng trong những điều kiện hoàn cảnh thuận lợi (“thiên thời”).
Các xu thế lịch sử hướng tới sự thống nhất các vùng lãnh thổ, các tộc người Tây Nguyên với vùng đồng bằng Nam Trung Bộ và Nam Bộ tiến tới một quốc gia thống nhất dưới triều Nguyễn (mà cơ sở đã được xây dựng từ cuộc khởi nghĩa Tây Sơn vào cuối thế kỷ XVIII). Sự thống nhất này không thể làm mất đi nền văn hóa riêng độc đáo của cư dân Tây Nguyên nói chung và mỗi tộc người ở địa bản ấy nói riêng.
Trải qua nhiều thế hệ, sự giao tiếp giữa các tộc người được tăng lên qua các đợt di dân trong lịch sử, chủ yếu của người Việt ở phía Bắc, đặc biệt từ thời phong kiến triều Nguyễn, rồi đẩy mạnh hơn thời kỳ Pháp thuộc, thời Mỹ ngụy chiếm đóng. Về sau, khi đất nước được thống nhất các dân tộc trên địa bàn Tây Nguyên ngày càng xích gần nhau, đoàn kết chặt chẽ thân thiết để xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ngày nay. Từ đó: “có thể kết luận rằng tính chất địa phương của cư dân Tây Nguyên là một nhân tố quan trọng tạo nên truyền thống, tính cách của các dân tộc ở vùng cao nguyên rộng lớn. Mặc khác, từ rất sớm người việt di dân vào đây đã hòa nhập với các tộc người ở Tây Nguyên, cùng nhau xây dựng và bảo vệ đất nước thống nhất. Điều này càng thể hiện rõ rệt từ sau Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và xây dựng xã hội chủ nghĩa”[1].
Trong quá trình các dân tộc Tây Nguyên xích gần, rồi gia nhập vào đại gia đình các dân tộc Việt Nam, thời kỳ các chúa Nguyễn cai trị Đàng Trong có ý ngĩa không nhỏ. Trên con đường tiến vào phương Nam để khai khẩn, chung sống với các cư dân bản địa, người Việt phương bắc vẫn chưa đến được với vùng cao nguyên phía Tây của dải đất miền Trung, dù từ thế kỷ thứ II, vương quốc Champa sau khi được thành lập đã luôn luôn đánh chiếm đất đai của các bộ tộc Tây Nguyên, đẩy họ vào miền rừng núi xa xôi. Sự xâm chiếm của người Chama “đã gây ra sự phàn kháng mạnh mẽ của cư dân vùng này”[2].
Khi chúa Nguyễn ở Đàng Trong mở rộng phía nam thì cũng vươn tới vùng cao nguyên và tìm cách chiếm đóng, áp bức bóc lột nhân dân ở đây. Các quan lại Thuận Hóa dần dần được cử lên vùng cao nguyên để ủng cố, mở rộng việc chiếm đóng và cai trị của mình.
Chúng đua nhau vơ vét ngà voi,lâm sản quý, bắt dân phục dịch khổ sở trăm điều. Phản ứng tự nhiên của người dân Tây Nguyên là vùng dậy, nhiều lần đấu tranh chống quan lại chúa nguyễn. Họ cũng đã liên kết với một số người Kinh lên cao nguyên làm ăn sinh sống và mở rộng dần sự phối hợp với các cuộc đấu tranh ở trung châu, đặc biệt ở vùng giáp ranh. Tiêu biểu là trong cuộc khởi nghĩa của nông dân Tây Sơn cuối thế kỷ XVIII, nhân dân các bộ tộc Ba Na, Gia Rai, Xê đăng…đã cùng Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ vùng lên đập tan ách thống trị của chúa Nguyễn ở Đàng Trong, tiến quân ra bắc đánh đổ tập đoàn phong kiến Lê – Trịnh, đánh tan quân xâm lược Xiêm La ở phía Nam, đại thắng quân Mãn Thanh ở phía Bắc, đặc cơ sở cho sự thống nhất đất nước.
Hiện chúng tôi chưa có đầy đủ tư liệu để xác định nhân dân các tộc người ở Tây Nguyên đã đóng góp như thế nào trong việc đánh đổ tập đoàn phong kiến Đàng Trong, Đàng Ngoài và trong chiến thắng chống xâm lược Xiêm, Mãn Thanh, góp phần vào công cuộc thống nhất đất nước. Đây là đề tài hay, rất thú vị và có ý nghĩa, tác dụng to lớn trong việc giáo dục thế hệ trẻ ngày nay, mong được các nhà nghiên cứu quan tâm. Tuy nhiên, những di vật, các câu chuyện dân gian ở Tây Nguyên cũng phần nào đã xác nhận sự đóng góp của các dân tộc người vùng Tây Sơn thượng đạo vào cuộc chiến tranh nông dân vĩ đại này. Các địa danh “Sa khổng lồ, Hồ ông Nhạc” nhắc chuyện Nguyễn Nhạc đã đến vùng Yang Trung, Yang Nam ( nay là huyện Kông Chro, Gia Lai) buôn bán dùng thuốc đánh bắt cá và vận động nhân dân xây dựng căn cứ. Di tích về căn cứ nhà và kho tiền của Nguyễn Nhạc ở Plây Đê Hlang xã Yang Nam huyện Kông Chro, tương truyền về sự chuẩn bị khởi nghĩa của nghĩa quân Tây Sơn, những câu chuyện về sự ủng hộ của nhân dân các dân tộc Tây Nguyên đối với cuộc khỡi nghĩa của Tây Sơn còn lưu truyền khá nhiều ở vùng Gia Lai, đặc biệt chuyện về bà Sa Đố, một nữ tù trưởng người Ba Na đã lấy Nguyễn Nhạc thường được người kinh gọi là “Cô Hầu” hay “Hầu Đô Đốc” đã huy động nhân dân địa phương cung cấp lương thực, người, voi, tiền của cho nghĩa quân Tây Sơn. Chúng tôi cũng nghĩ rằng các chiến binh Tây Nguyên trong hàng ngũ nghĩa quân Tây Sơn đặc biệt trong các đội tượng – mã – binh có vai trò quan trọng trong các cuộc tiến công đánh bại quân xâm lược Xiêm La và Mãn Thanh. Sử quán triều Nguyễn đã ghi công đội quân Tượng – Mã của đô đốc Bảo, Đại đô đốc Mưu tấn công quân Mãn Thanh, đi đường núi ra phía tây có những thớt voi thiện chiến của “người Man” Tây Nguyên (tức của các dân tộc Tây Nguyên)[3]
Trong nửa đầu thế kỷ XIX, các vua Nguyễn lần lượt tiến hành cải cách hành chính địa phương. Năm 1831 – 1832 Minh Mệnh đã xóa bỏ các Tổng trấn, đổi các dinh trấn thành tỉnh và tập trung nhiều hơn quyền hành vào tay nhà vua. Đối với vùng Thượng du, trong đó có Tây Nguyên, triều đình bỏ lệ thế tập của các thổ ty ở vùng dân tộc ít người phía Bắc, giảm nhiều quyền hạn của các tù trưởng, tộc trưởng ở vùng phía Nam. Các vùng ngưởi dân tộc thiểu số trở thành một bộ phận của các tỉnh ( từ Thời Minh Mệnh). Song Minh Mệnh vẫn cho các quan địa phương chọn cử những “thổ ty, hào mục…thanh liêm, tài năng mẫn cán được dân tin dùng làm Thổ tri châu, Thổ tri huyện…”[4]. Trên thực tế triều đình nhà Nguyễn đã cử các viên quan miền xuôi tin cậy toàn quyền cai trị các vùng dân tộc Tây Nguyên. Họ ra sức vơ vét, bóc lột để cống nộp cho nhà vua. Tuy nhiên, quyền lực của các tù trưởng, tộc trưởng vẫn còn rất lớn, đặc biệt là là các vua Lửa, vua Nước (Patau Ia – Ptau Pui). Thực chất các Patau là những thầy mo người Gia Rai sống trên khu vực EaH’leo (tỉnh Đắc Lắk ngày nay) và ở thung lũng Ayun (tỉnh Gia Rai) có quyền uy và thế lực rất lớn. “Họ tự xưng là người thay mặt thần linh (Giàng), trao cho nhân dân những mệnh lệnh, những hồng ân, hoặc giáng những cơn thịnh nộ và người dân phải hứng chịu, phải tuân thủ mọi mệnh lệnh của họ…”[5].
Quyền lực của các tù trưởng, tộc trưởng bị thu hẹp, đã tăng cường quyền lực triều đinh và sự thống nhất đất nước, tất nhiên gặp sự phản kháng mạnh mẽ của các “vua” địa phương, còn cố sức tập hợp dân chúng chống lại triều đình.Vì vậy các vua triều Nguyễn càng ra sức chỉnh đốn lại bộ máy thống trị và chú trọng phát triển kinh tế ở vùng cao nguyên này. Mặc khác triều đình Huế cũng ra sức bảo vệ vùng lãnh thổ này của Tổ quốc chống lại các cuộc xâm lăng của quân đội nước ngoài. Ví như: “dưới thời vua Gia Long, triều đình đã mở nhiều cuộc phản công quân Xiêm đang chiếm đóng nhiều nơi trên lãnh thổ cao nguyên, đuổi chúng chạy về bên kia tả ngạn sông Mê Kông. Quân Nguyễn đóng đồn lũy dọc tả ngạn thành một phòng tuyến vững chắc, bảo vệ lãnh thổ cao nguyên của Tổ quốc”[6].
Chính sách cai trị của triều đình, sự suy yếu của chế độ phong kiến, sự xâm lược và âm mưu xâm lược của nước ngoài làm cho vùng Tây Nguyên thường xuyên bất ổn, đời sống của nhân dân đã cơ cực càng thêm nghèo khổ. Đây là nguyên nhân cơ bản của các cuộc nổi dậy của nhân dân các tộc người Tây Nguyên chống lại các vua quan triều đình Huế, đặc biệt nhân chống lại việc cướp đất, lập đồn điền, xiết chặt ách thống trị tàn bạo của các quan lại triều đình.
Trong lúc nhân dân chống lại chế độ phong kiến, các tộc người Tây Nguyên cũng như đồng bào cả nước đang đứng trước nguy cơ xâm lược của thực dân phương Tây. Sự thâm độc của thực dân Pháp trong việc  xâm chiếm nước ta thể hiện trước tiên ở việc tiến hành các “cuộc Thám hiểm”, “truyền đạo Cơ đố” ở vùng Tây Nguyên, nhằm chia rẽ các dân tộc, xạy dựng cơ sở, do thám… Hiểu rõ âm mưu này, nhân dân các tộc người Tây Nguyên chuyển mũi nhọn đấu tranh chủ yếu sang thực dân Pháp. “Năm 1848 đồng bào các dân tộc Kon Tum nổi dậy phá làng đạo, lấy lại tài sản của mình, bắt giáo sĩ nộp cho triều đình Huế. Đến năm 1862, cũng chính những người Ba Na có đạo đứng lên chống lại giáo sĩ xứ Kon Tum. Tháng 3 – 1877, người Xê Đăng ở Bắc Kon Tum bỏ làng đạo, lùng bắt cha cố, san bằng nhà thờ. Cũng năm ấy, đồng bào Gia Rai, Ê Đê cùng người kinh ở Quảng Ngãi hưởng ứng phong trào Cần Vương đánh Pháp…”[7]
Qua đôi nét phát họa về tình hình Tây Nguyên dưới thời nhà Nguyễn trong thế kỷ XIX, chúng tôi còn tiếp tục đi sâu tiềm hiểm thêm:
- Những chính sách của nhà Nguyễn trong việc cai trị vùng Tây Nguyên, trong thời kỳ mà đất nước đã được thống nhất: những mặt tích cực và hạn chế.
            - Ý thức và sự đóng góp trên thực tế của nhân dân các dân tộc người Tây Nguyên trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cũng như bảo vệ quê hương buôn làng.




ß Sở giáo dục – Đào tạo Đắc Lắc
[1] Phan n Bé: Tư tưởng Hồ Chí Minh với các dân tộc  Tây Nguyên , MXB Đại học quốc gia Hà Nội. 2001. tr. 22
[2] Toan Ánh – Cửu Long Giang: Miền thượng cao nguyên chiến lược – Sài Gòn – 1974.
[3] Phan n Bé: Tây Nguyên sử lược – NXB Giáo Dục – Hà Nội. 1993, tr. 29
[4] Trương Hữu Quýnh – Đinh Xuân Lâm – Lê Mậu Hãn: Đại cương lịch sử Việt Nam, tập II, NXB Giáo Dục, Hà Nội, 2001, tr. 437.
[5] Phan n Bé. Tây Nguyên sử học. Sđd, tr. 30
[6] Phan n Bé. Tây Nguyên sử học. Sđd, tr. 31
[7] Phan n Bé. Tây Nguyên sử học. Sđd, tr. 33

No comments:

Post a Comment