Tây Nguyên
được xem là nóc nhà của Đông Dương, nằm trên cao nguyên Nam Trung bộ rộng lớn. Diện tích
53.471 km vuông, từ tây sang đông, Phía bắc Tây Nguyên giáp với Quảng Nam ,
Quảng Ngãi, phía đông giáp với Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa; phía Nam giáp
Bình Thuận, Ninh Thuận; phía tây giáp hai nước Lào và Campuchia. Rõ ràng vị trí
địa lý, chiến lược này gắn Tây Nguyên với vùng đồng bằng Trung Bộ và thuận
đường giao thông với khu vực Đông Nam Bộ. Điều kiện tự nhiên ấy (“địa
lợi”) tạo nên mối giao lưu kinh tế,văn hóa, để trên cơ sở đó tiến tới hình
thành sự đoàn kết, chiến đấu (“nhân hoa”). Hai yếu tố “địa lợi”, “nhân hòa” này
đã quyết định những thắng lợi của các tộc người trong lao động sản xuất và
chiến đấu bảo vệ quê hương buôn làng trong những điều kiện hoàn cảnh thuận lợi
(“thiên thời”).
Các xu thế
lịch sử hướng tới sự thống nhất các vùng lãnh thổ, các tộc người Tây Nguyên với
vùng đồng bằng Nam Trung Bộ
và Nam
Bộ tiến tới một quốc gia thống nhất dưới triều Nguyễn (mà cơ sở đã được xây
dựng từ cuộc khởi nghĩa Tây Sơn vào cuối thế kỷ XVIII). Sự thống nhất này không
thể làm mất đi nền văn hóa riêng độc đáo của cư dân Tây Nguyên nói chung và mỗi
tộc người ở địa bản ấy nói riêng.
Trải qua
nhiều thế hệ, sự giao tiếp giữa các tộc người được tăng lên qua các đợt di dân
trong lịch sử, chủ yếu của người Việt ở phía Bắc, đặc biệt từ thời phong kiến
triều Nguyễn, rồi đẩy mạnh hơn thời kỳ Pháp thuộc, thời Mỹ ngụy chiếm đóng. Về
sau, khi đất nước được thống nhất các dân tộc trên địa bàn Tây Nguyên ngày càng
xích gần nhau, đoàn kết chặt chẽ thân thiết để xây dựng Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa ngày nay. Từ đó: “có thể kết luận rằng tính chất địa phương của cư dân
Tây Nguyên là một nhân tố quan trọng tạo nên truyền thống, tính cách của các
dân tộc ở vùng cao nguyên rộng lớn. Mặc khác, từ rất sớm người việt di dân vào
đây đã hòa nhập với các tộc người ở Tây Nguyên, cùng nhau xây dựng và bảo vệ
đất nước thống nhất. Điều này càng thể hiện rõ rệt từ sau Cách mạng tháng Tám,
trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và xây dựng xã hội chủ nghĩa”[1].
Trong quá
trình các dân tộc Tây Nguyên xích gần, rồi gia nhập vào đại gia đình các dân
tộc Việt Nam ,
thời kỳ các chúa Nguyễn cai trị Đàng Trong có ý ngĩa không nhỏ. Trên con đường
tiến vào phương Nam
để khai khẩn, chung sống với các cư dân bản địa, người Việt phương bắc vẫn chưa
đến được với vùng cao nguyên phía Tây của dải đất miền Trung, dù từ thế kỷ thứ
II, vương quốc Champa sau khi được thành lập đã luôn luôn đánh chiếm đất đai
của các bộ tộc Tây Nguyên, đẩy họ vào miền rừng núi xa xôi. Sự xâm chiếm của
người Chama “đã gây ra sự phàn kháng mạnh mẽ của cư dân vùng này”[2].
Khi chúa
Nguyễn ở Đàng Trong mở rộng phía nam thì cũng vươn tới vùng cao nguyên và tìm
cách chiếm đóng, áp bức bóc lột nhân dân ở đây. Các quan lại Thuận Hóa dần dần
được cử lên vùng cao nguyên để ủng cố, mở rộng việc chiếm đóng và cai trị của
mình.
Chúng đua
nhau vơ vét ngà voi,lâm sản quý, bắt dân phục dịch khổ sở trăm điều. Phản ứng
tự nhiên của người dân Tây Nguyên là vùng dậy, nhiều lần đấu tranh chống quan
lại chúa nguyễn. Họ cũng đã liên kết với một số người Kinh lên cao nguyên làm
ăn sinh sống và mở rộng dần sự phối hợp với các cuộc đấu tranh ở trung châu,
đặc biệt ở vùng giáp ranh. Tiêu biểu là trong cuộc khởi nghĩa của nông dân Tây
Sơn cuối thế kỷ XVIII, nhân dân các bộ tộc Ba Na, Gia Rai, Xê đăng…đã cùng
Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ vùng lên đập tan ách thống trị của chúa Nguyễn ở Đàng
Trong, tiến quân ra bắc đánh đổ tập đoàn phong kiến Lê – Trịnh, đánh tan quân xâm
lược Xiêm La ở phía Nam, đại thắng quân Mãn Thanh ở phía Bắc, đặc cơ sở cho sự
thống nhất đất nước.
Hiện chúng
tôi chưa có đầy đủ tư liệu để xác định nhân dân các tộc người ở Tây Nguyên đã
đóng góp như thế nào trong việc đánh đổ tập đoàn phong kiến Đàng Trong, Đàng
Ngoài và trong chiến thắng chống xâm lược Xiêm, Mãn Thanh, góp phần vào công
cuộc thống nhất đất nước. Đây là đề tài hay, rất thú vị và có ý nghĩa, tác dụng
to lớn trong việc giáo dục thế hệ trẻ ngày nay, mong được các nhà nghiên cứu
quan tâm. Tuy nhiên, những di vật, các câu chuyện dân gian ở Tây Nguyên cũng
phần nào đã xác nhận sự đóng góp của các dân tộc người vùng Tây Sơn thượng đạo
vào cuộc chiến tranh nông dân vĩ đại này. Các địa danh “Sa khổng lồ, Hồ ông
Nhạc” nhắc chuyện Nguyễn Nh ạc
đã đến vùng Yang Trung, Yang Nam
( nay là huyện Kông Chro, Gia Lai) buôn bán dùng thuốc đánh bắt cá và vận động
nhân dân xây dựng căn cứ. Di tích về căn cứ nhà và kho tiền của Nguyễn Nh ạc ở Plây Đê
Hlang xã Yang Nam
huyện Kông Chro, tương truyền về sự chuẩn bị khởi nghĩa của nghĩa quân Tây Sơn,
những câu chuyện về sự ủng hộ của nhân dân các dân tộc Tây Nguyên đối với cuộc
khỡi nghĩa của Tây Sơn còn lưu truyền khá nhiều ở vùng Gia Lai, đặc biệt chuyện
về bà Sa Đố, một nữ tù trưởng người Ba Na đã lấy Nguyễn Nhạc thường được người
kinh gọi là “Cô Hầu” hay “Hầu Đô Đốc” đã huy động nhân dân địa phương cung cấp
lương thực, người, voi, tiền của cho nghĩa quân Tây Sơn. Chúng tôi cũng nghĩ
rằng các chiến binh Tây Nguyên trong hàng ngũ nghĩa quân Tây Sơn đặc biệt trong
các đội tượng – mã – binh có vai trò quan trọng trong các cuộc tiến công đánh
bại quân xâm lược Xiêm La và Mãn Thanh. Sử quán triều Nguyễn đã ghi công đội
quân Tượng – Mã của đô đốc Bảo, Đại đô đốc Mưu tấn công quân Mãn Thanh, đi
đường núi ra phía tây có những thớt voi thiện chiến của “người Man” Tây Nguyên
(tức của các dân tộc Tây Nguyên)[3]
Trong nửa đầu
thế kỷ XIX, các vua Nguyễn lần lượt tiến hành cải cách hành chính địa phương.
Năm 1831 – 1832 Minh Mệnh đã xóa bỏ các Tổng trấn, đổi các dinh trấn thành tỉnh
và tập trung nhiều hơn quyền hành vào tay nhà vua. Đối với vùng Thượng du,
trong đó có Tây Nguyên, triều đình bỏ lệ thế tập của các thổ ty ở vùng dân tộc
ít người phía Bắc, giảm nhiều quyền hạn của các tù trưởng, tộc trưởng ở vùng
phía Nam .
Các vùng ngưởi dân tộc thiểu số trở thành một bộ phận của các tỉnh ( từ Thời
Minh Mệnh). Song Minh Mệnh vẫn cho các quan địa phương chọn cử những “thổ ty,
hào mục…thanh liêm, tài năng mẫn cán được dân tin dùng làm Thổ tri châu, Thổ
tri huyện…”[4]. Trên
thực tế triều đình nhà Nguyễn đã cử các viên quan miền xuôi tin cậy toàn quyền
cai trị các vùng dân tộc Tây Nguyên. Họ ra sức vơ vét, bóc lột để cống nộp cho
nhà vua. Tuy nhiên, quyền lực của các tù trưởng, tộc trưởng vẫn còn rất lớn,
đặc biệt là là các vua Lửa, vua Nước (Patau
Ia – Ptau Pui). Thực chất các
Patau là những thầy mo người Gia Rai sống trên khu vực EaH’leo (tỉnh Đắc Lắk
ngày nay) và ở thung lũng Ayun (tỉnh Gia Rai) có quyền uy và thế lực rất lớn.
“Họ tự xưng là người thay mặt thần linh (Giàng), trao cho nhân dân những mệnh
lệnh, những hồng ân, hoặc giáng những cơn thịnh nộ và người dân phải hứng chịu,
phải tuân thủ mọi mệnh lệnh của họ…”[5].
Quyền lực của
các tù trưởng, tộc trưởng bị thu hẹp, đã tăng cường quyền lực triều đinh và sự
thống nhất đất nước, tất nhiên gặp sự phản kháng mạnh mẽ của các “vua” địa
phương, còn cố sức tập hợp dân chúng chống lại triều đình.Vì vậy các vua triều
Nguyễn càng ra sức chỉnh đốn lại bộ máy thống trị và chú trọng phát triển kinh
tế ở vùng cao nguyên này. Mặc khác triều đình Huế cũng ra sức bảo vệ vùng lãnh
thổ này của Tổ quốc chống lại các cuộc xâm lăng của quân đội nước ngoài. Ví
như: “dưới thời vua Gia Long, triều đình đã mở nhiều cuộc phản công quân Xiêm
đang chiếm đóng nhiều nơi trên lãnh thổ cao nguyên, đuổi chúng chạy về bên kia
tả ngạn sông Mê Kông. Quân Nguyễn đóng đồn lũy dọc tả ngạn thành một phòng
tuyến vững chắc, bảo vệ lãnh thổ cao nguyên của Tổ quốc”[6].
Chính sách
cai trị của triều đình, sự suy yếu của chế độ phong kiến, sự xâm lược và âm mưu
xâm lược của nước ngoài làm cho vùng Tây Nguyên thường xuyên bất ổn, đời sống
của nhân dân đã cơ cực càng thêm nghèo khổ. Đây là nguyên nhân cơ bản của các
cuộc nổi dậy của nhân dân các tộc người Tây Nguyên chống lại các vua quan triều
đình Huế, đặc biệt nhân chống lại việc cướp đất, lập đồn điền, xiết chặt ách
thống trị tàn bạo của các quan lại triều đình.
Trong lúc
nhân dân chống lại chế độ phong kiến, các tộc người Tây Nguyên cũng như đồng
bào cả nước đang đứng trước nguy cơ xâm lược của thực dân phương Tây. Sự thâm
độc của thực dân Pháp trong việc xâm
chiếm nước ta thể hiện trước tiên ở việc tiến hành các “cuộc Thám hiểm”,
“truyền đạo Cơ đố” ở vùng Tây Nguyên, nhằm chia rẽ các dân tộc, xạy dựng cơ sở,
do thám… Hiểu rõ âm mưu này, nhân dân các tộc người Tây Nguyên chuyển mũi nhọn
đấu tranh chủ yếu sang thực dân Pháp. “Năm 1848 đồng bào các dân tộc Kon Tum
nổi dậy phá làng đạo, lấy lại tài sản của mình, bắt giáo sĩ nộp cho triều đình
Huế. Đến năm 1862, cũng chính những người Ba Na có đạo đứng lên chống lại giáo
sĩ xứ Kon Tum. Tháng 3 – 1877, người Xê Đăng ở Bắc Kon Tum bỏ làng đạo, lùng
bắt cha cố, san bằng nhà thờ. Cũng năm ấy, đồng bào Gia Rai, Ê Đê cùng người
kinh ở Quảng Ngãi hưởng ứng phong trào Cần Vương đánh Pháp…”[7]
Qua đôi nét
phát họa về tình hình Tây Nguyên dưới thời nhà Nguyễn trong thế kỷ XIX, chúng
tôi còn tiếp tục đi sâu tiềm hiểm thêm:
- Những chính
sách của nhà Nguyễn trong việc cai trị vùng Tây Nguyên, trong thời kỳ mà đất
nước đã được thống nhất: những mặt tích cực và hạn chế.
-
Ý thức và sự đóng góp trên thực tế của nhân dân các dân tộc người Tây Nguyên
trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cũng như bảo vệ quê hương buôn làng.
ß
Sở giáo dục – Đào tạo Đắc Lắc
[1] Phan Vă n
Bé: Tư tưởng Hồ Chí Minh với các dân tộc
Tây Nguyên , MXB Đại học quốc gia Hà Nội. 2001. tr. 22
[2] Toan Ánh
– Cửu Long Giang: Miền thượng cao nguyên chiến lược – Sài Gòn – 1974.
[4] Trương
Hữu Quýnh – Đinh Xuân Lâm – Lê Mậu Hãn: Đại cương lịch sử Việt Nam ,
tập II, NXB Giáo Dục, Hà Nội, 2001, tr. 437.
No comments:
Post a Comment