Lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Yên Thế, được mệnh danh là Hùm Xám Yên Thế, lúc
nhỏ tên là Trương Văn Nghĩa, quê làng Dị Chế, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên (Hài
Hưng). Cha ông là Trương Văn Thận, học giỏi nhưng thi không đậu, làm nghề dạy học,
mẹ ông là người giỏi võ nghệ. Cha mẹ ông bị giết vì tham gia vào cuộc nổi dậy của
Nguyễn Văn Nhàn, một bộ tướng của Nùng Văn Vân ở Sơn Tây, ông cùng người chú trốn
thoát được, đổi tên họ và về sống ở làng Trũng, phủ Yên Thế. Ông không được học
hành nhưng thông minh và có sức khỏe hơn người. Sau ông được Bá Phức, một Chánh
tổng đưa về nuôi. Năm 16 tuổi, ông tham gia cuộc khởi nghĩa của Đại Trận (1870
– 1875). Khi quân Pháp chiếm được Bắc Ninh, ông tham gia cuộc nổi dậy của Lãnh
binh Trần Quang Loan. Sau đó ông cùng cha nuôi là Bá Phức gia nhập cuộc khởi
nghĩa của Hoàng Đình Kinh (Cai Kinh) dấy lên ở núi Đồng Nãi, phía Bắc vùng Yên
Thế. Năm 1888, Cao Kinh bị thủ hạ sát hại, Hoàng Hoa Thám lại đứng dưới cờ của
quân khởi nghĩa do Lương Văn Nắm (Đội Nắm) chỉ huy.
Ở đây, ông trở thành người tướng tài, có uy tín trong hàng ngũ nghĩa
quân, nổi tiếng có tài xuất quỷ nhập thần, thoắt biến, thoắt hiện. Trong những
lần Pháp đem lực lượng tấn công vào các nơi đồn trú của ông ở Cao Thượng
(6.11.1890), Hố Chuối (11.1.1891) và các cứ điểm ở phía Bắc đồn Hố Chuối
(3.1892) đều bị đánh trả rất quyết liệt. Nếu chúng có lọt vào được nơi đồn trú
đó thì nghĩa quân đã biến mất. Người ta cho rằng ông đưa quân vào các căn cứ
trong rừng sâu và từ đây ông vẫn thường xuyên tấn công các đoàn vận tải của
quân Pháp. Tháng 4.1892 Đội Nắm bị thủ hạ là Đề Sặt giết hại. Ngày 8.2.1893, Đề
Thám cho quân bắt giết Đề Sặt. Sau đó thanh thế nghĩa quân do Đề Thám lãnh đạo
càng lan rộng ra khắp các tổng xung quanh vùng Nhã Nam. Đầu năm 1894 một số người
lãnh đạo hàng ngũ nghĩa quân ở trong vùng như Tổng Chế, Ba Chi, Bá Phức ra hàng
Pháp. Không dụ được ông, thực dân PHáp dùng Lê Hoan, Tổng đốc Bắc Ninh và cha
nuôi ông là Bá Phức tìm kế sát hại. Lần đầu vào cuối tháng 3.1894, ông được Bá
Phức mời đến Lược Hạ, cho bỏ thuốc độc vào nước mới uống, nhưng ông tinh ý
thoát được. Lần thứ hai vào ngày 18.5.1894, Bá Phức đến thăm ông ở Hố Chuối rồi
để cái tráp trong có quả bom dưới gầm giường ông nằm, đợi ông ngủ say, châm
ngòi nổ và trốn ra khỏi đồn. Thế nhưng ông chỉ giả vờ ngủ nên không bị hại. Người
ta còn cho rằng ông tương kế tựu kế, cho vợ con và người nhà mặc quần áo tang
giả như ông đã chết để dụ quân Pháp chủ quan đánh vào. Sau khi âm mưu sát hại
Hoàng Hoa Thám không thành, quân Pháp tấn công và phá hủy đồn Hố Chuối, nghĩa
quân rút sang hoạt động ở vùng rừng núi tỉnh Thái Nguyên. Tháng 8.1894, ông lại
trở về Bắc Ninh xây dựng căn cứ, đồn lũy mới. Thu hút được lực lượng ở một số
nơi, dưới quyền Đề Thám lúc đó có một số tướng giỏi như Đặng Thị Nho, vợ ba của
ông, gọi là Ba Cẩn, con đầu của ông, Cả Huỳnh, Cả Dinh, Ba Biều, Đội Thu, Thống
Luận, Lĩnh Túc, Bang Kinh. Để có tiền và có thời gian chuẩn bị thêm lực lượng,
Đề Thám chủ trương bắt cóc một số người Pháp. Ngày 17.9.1894, ông cho lực lượng
do Bang Kinh chỉ huy bắt được người Pháp là chủ nhiệm tờ “Tương Lai Bắc Kỳ” với
người giúp việc trên đường xe lửa đọa giữa suối Ghềnh và Bắc Lộ. Ông dùng hai
con tin người Pháp này làm điều kiện để hòa hoãn với nhà cầm quyền Pháp. Ngày
25.10.1894, hai người Pháp được thả, nghĩa quân Đề Thám được một số tiền chuộc
là 15.000 đồng và được làm chủ bốn tổng Yên Lễ, Hữu Thượng, Mục Sơn, Nhã Nam
thuộc Yên Thế. Sau cuộc giảng hòa, ông về đóng đại bản doanh tại Phồn Xương,
chuẩn bị lực lượng và khuếch trương thanh thế ra khắp vùng. Một số người giàu
theo Pháp, không chịu tiếp tế lương lực cho nghĩa quân, bị các tướng của Đề
Thám đến trừng trị như ở Phả Lại (23.3.1895), Bắc Ninh (30.4.1895), Phủ Liễn
(15.9.1895). Vin vào những sự kiện này, ngày 7.10.1895, Pháp gửi tối hậu thư bắt
ông phải ra Bắc Ninh yết kiến viên Thống sứ Bắc Kỳ và đại diện của triều dình.
Ông không chấp nhận, Pháp dùng đại bác và một số quân đông đảo tấn công vào
nghĩa quân. Trước lực lượng mạnh của Pháp, nghĩa quân bị tổn thất nặng nề, một
số tùy tướng bị tử trận như Đốc Thu, số khác phải ra hàng như Đốc Túc, Đốc Văn,
Điền Ân, một số bị bắt như Đốc Khế, Đốc Hậu, Thống Luận. Năm 1897 Kỳ Đồng Nguyễn
Văn Cẩm, sau khi học ở Pháp về, xin nhà cầm quyền Pháp lên lập đồn điền ở Yên
Thế, nhưng kỳ thực là tìm cách giúp đỡ nghĩa quân của Đề Thám. Vì thế, nghĩa
quân có điều kiện tăng cường lực lượng cả về nhân lực lẫn vật lực. Ngày
13.11.1897 qua trung gian Giám mục Vélasco, Đề Thám gửi thư giảng hòa với chính
phủ bảo hộ Pháp. Ngày 26.11.1897 Toàn quyền Doumer chấp nhận đề nghị này của
ông. Tháng 12.1897 ông lại đưa quân về đồn trú ở Phồn Xương. Do có liên lạc với
phong trào Đông Du và Duy Tân của Phan Bội Châu*, Tăng Bạt Hổ*, Cường Để*… nên
nghĩa quân Yên Thế được trang bị những vũ khí tốt mua từ Nhật và Xiêm về. Đề
Thám còn mở rộng địa bàn hoạt động của nghĩa quân xuống tru du và đồng bằng, kể
cả Hà Nội, trong đó có các tổ chức như Nghĩa Hưng, Trung Châu Ứng Nghĩa làm
nòng cốt. Ngày 27.6.1908 Hoàng Hoa Thám chỉ đạo cuộc khởi nghĩa của binh lính
yêu nước ở Hà Nội, định đầu độc quân Pháp bằng cách bỏ thuốc độc vào thức ăn, rồi
đánh các đồn binh ở đây nhưng việc không thành. Ngày 28.1.1909, Pháp huy động một
lực lượng to lớn tấn công lên Yên Thế. Nghĩa quân đã đánh trả quân Pháp ở nhiều
nơi như chợ Gò, Ấm Động, Rừng Tre, Bố Hạ, Đồng Đăng, tiêu diệt được nhiều sinh
lực của quân Pháp, nhưng do lực lượng quá chênh lệch nên nghĩa quân cũng bị thiệt
hại nặng, một số tướng bị tử trận như Cả Trọng, Cả Huỳnh, Lãnh Thái, Lãnh Thuận,
số khác bị bắt. Sau đó một thời gian Đặng Thị Nho, vợ ông cùng con gái là Hoàng
Thị Thế cũng bị quân PHáp bắt đưa sang Pháp. Nhưng trước khi xuống tàu, bà Đặng
Thị Nho đã tự vẫn. Hoàng Hoa Thám chỉ còn lại hai nghĩa quân tâm phúc bên mình.
Tuy vậy quân Pháp vẫn không sao lùng bắt được ông. Tháng 12.1912, Lương Tam Kỳ,
trước đây có hoạt động chống Pháp, nay ra hàng, vì tham số tiền thưởng lớn mà
Pháp hứa, nên cho tay chân tìm ra tung tích của Đề Thám. Ngày 10.2.1913, chúng
sát hại ông cùng hai người thủ hạ ở Hố Lầy cách chợ Gò hai cây số. Về cái chết
của ông cho đến nay vẫn còn nhiều bí ẩn với nhiều nguồn tin khác nhau. Người ta
cho rằng thủ cấp mà Pháp bêu ở chợ Nhã Nam chỉ là thứ giả vì chúng muốn chấm dứt
một huyền thoại về “hùm xám” Yên Thế, người lãnh đạo nổi tiếng của nghĩa quân.
Hoàng Hoa Thám xứng đáng là người anh hùng dân tộc trong phong trào chống Pháp
cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.
V.H.L.
No comments:
Post a Comment