Sunday, May 29, 2016

HỒ CHÍ MINH (1890-1969)


Người đầu tiên truyền bá chủ nghĩa Mác-Leenin và Việt Nam, người sáng lập ra Đảng Cộng Sản Việt Nam, Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (1945-1969), nhà hoạt động nổi tiếng của phong trào cộng sản, nhà văn hóa lớn của thế giới, tên lúc nhỏ là Nguyễn Sinh Cung sau đổi tên là Nguyễn Tất Thành, Văn Ba, Nguyễn Ái Quốc, Chen Vang, Li nốp, Lý Thụy… cùng nhiều bí danh và bút danh khác, quê làng Kim Liên, xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ Tĩnh), sinh ngày 19.5.1890 tại quê ngoại làng Hoàng Trù (cùng xã Chung Cự), trong một gia đình nhà nho có nguồn gốc nông dân. Thân sinh là Nguyễn Sinh Sắc (sau lấy tên Nguyễn Sinh Huy) đỗ Phó bảng năm Tân Sửu (1901),làm Thừa biện Bộ Lễ trong triều đình Huế, rồi tri huyện Bình Khê (Bình Định) năm 1909, bị bãi chức làm thường dân sống bằng nghề dạy học và làm thuốc. Thân mẫu là Hoàng Thị Loan, con một gia đình nhà nho, làm nghề nông và dệt vải.
Năm 1895, Người cùng với gia đình vào sống ở Huế và được học chữ Hán ở đây. Ngày 10.2.1901, thân mẫu của Người qua đời ở Huế, Người về sống ở quê nhà và tiếp tục học chữ Hán. Cuối năm 1904 Người theo cha vào Huế lần thứ hai vào học tại trường Tiểu học Đông Ba (1905 – 1907). Tháng 5.1908 khi đang học Trường Quốc học Huế, Người tham gia cuộc đấu tranh chống thuế của nông dân ở đây nên bị đuổi học. Người đi vào các tỉnh phía nam, có một thời gian với tên gọi là Nguyễn Tất Thành, Người dạy học ở trường Dục Thanh tại Phan Thiết (1910). Năm sau (1911) Người vào Sài Gòn. Ngày 5.6.1911, lấy tên là Văn Ba, Người rời cảng Nhà Rồng trên tàu Amiral Latouche Tréville của hang Chargeurs Réunies. Vừa làm phụ bếp, Người tận dụng mọi thời gian để học hỏi, tìm tòi trong sách báo và những thủy thủ trên tàu. Từ 1911 đến 1917 Người đã đi qua nhiều nước, sống ở nhiều nơi và làm nhiều nghề. Sau một thời gian sống ở Anh (từ 1914), thàng 6.1917 Người đến nước Pháp, tham gia Hội người Việt Nam yêu nước. Dến năm 1919, bản Yêu sách của nhân dân An Nam của Người gửi đến Hội nghị Versailles đã gây tiếng vang lớn. Cuối năm 1918, Người tham gia Đảng Xã Hội Pháp. Tại Đại hội 18 của Đảng Xã Hội Pháp họp ở Tours tháng 12.1920 Người bỏ phiếu tán thành Quốc Tế Thứ Ba, người trở thành một trong những người sáng lập ra Đảng Cộng Sản Pháp. Người tham gia sáng lập Hội Liên Hiệp Thuộc Địa (10.1921), sáng lập và làm Chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ báo “Người Cùng Khổ” (Le Paria) xuất bản ở Paris. Thời gian ở Pháp Người viết rất nheiefu bài đăng trên các báo “Nhân Đạo” (L’Humantié) và “Người Cùng Khổ” để tố cáo chính sách cai trị và bóc lột của chủ nghĩa đế quốc ở các thuộc địa. Đặc biệt, một số bài viết trong thời gian này sau đó tập hợp và xuất bản thành Bản án chế độ thực dân Pháp (1925). Đây “Công lý” của thực dân Pháp ở Đông Dương (1962) và vở kịch “Con rồng tre” (1922) đã gây được tiếng vang lớn. Năm 1923, Người đến Liên Xô tham dự Đại hội lần thứ nhất Quốc Tế Nông Dân ở Moskva và được bầu vào Đoàn Chủ Tịch Ban Chấp Hành Quốc Tế Nông Dân. Cuối năm đó, Người vào học Trường Đại Học Phương Đông. Cuối năm 1924 được cử làm ủy viên Bộ Phương Đông, phụ trách Cục Phương Nam của Quốc Tế Cộng Sản, với tên là Lý Thụy, Người đến Quảng Châu (Trung Quốc) chuẩn bị cho sự thành lập chính đảng của giai cấp vô sản ở Việt Nam: tổ chức các đoàn thể như Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội (6.1925), Thiếu Niên Tiền Phong, Tổ Phụ Nữ Cách Mạng (1926), sáng lập báo “Thanh Niên” (6.1925), báo “Công Nông” (7.1926). Người còn tham gia sáng lập Hội Liên Hiệp các Dân Tộc Bị Áp Bức ở Á Đông (1925) và được bầu làm Bí thư của Hội. Những bài giảng trong các lớp học chính trị của Người sau này được Hội xuất bản dưới tên gọi “Đường Kác Mệnh” (1927). Tháng 4.1927 Người đi Liên Xô. Mùa thu 1928, với tên gọi Thầu Chín, Ngườ hoạt động ở nhiều nơi trên đất Thái Lan để tuyên truyền tinh thần yêu nước trong Việt kiều. Cuối năm 1929 Người trở lại Trung Quốc chuẩn bị cho hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam. Người thảo Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Từ ngày 3 đến 7.2.1930 Người thay mặt Quốc Tế Cộng Sản chủ trì Hội nghị thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam tại Cửu Long gần Hồng Kông (Trung Quốc). Ngày 6.6.1931 dưới tên là Tống Văn Sơ, Người bị chính quyền Anh ở Hồng Kông bắt đến tháng 1.1933 mới được trả tự do nhờ sự can thiệp của Quốc Tế Cứu Tế Đỏ và ông bà luật sư Loseby. Người đến Liên Xô và vào học Trường Quốc Tế Lênin (10.1934). Trong hai năm 1936 – 1937 Người là nghiên cứu sinh tại Viện Nghiên Cứu Các vấn đề dân tộc và thuộc địa. Tháng 10.1938 Người trở lại hoạt động trong Bát Lộ quân Trung Quốc ở Quế Lâm, tỉnh Quảng Tây. Ở đây Người viết cuốn Khu vực đặc biệt, viết nhiều bài báo ký tên P.C.Line và Line gửi về đăng trên báo “Tiếng Nói của Chúng ta” (Notre voix) để chỉ đạo cách mạng trong nước. Ngày 8.2.1941, Người trở về Tổ Quốc sau hơn 30 năm hoạt động ở nước ngoài. Lúc đầu Người sống ở hang Cốc Pó, sau chuyển ra một lán nhỏ bên suối Khuổi Nậm cũng tại Pắc Bó, xã Trường Hà, Hà Giang, Cao Bằng. Ngày 19.5.1941, Người sáng lập Việt Minh Độc Lập Đồng Minh (Việt Minh) và báo “Việt Nam Độc Lập” (1.8.1941). Người viết nhiều bài đăng trên báo này để vận động quần chúng làm cách mạng, trong đó phải kể đến bài Lịch sử nước ta (2.19422) mà Người tiên đoán năm 1945 cách mạng Việt Nam nhất định thắng lợi. Trong thời gian ở Pắc Bó, Người làm những vần thơ đẹp:
“Non xa xa nước xa xa
Nào phải thênh thang mới gọi là,
Đây suối Lênin, kia núi Mác
Hai tay xây dựng một sơn hà”
“Pắc Bó hùng vĩ)
Tháng 8.1942, lấy tên là Hồ Chí Minh, Người sang Trung Quốc liên lạc với lực lượng cách mạng ở đó, nhưng bị chính quyền địa phương của Tưởng Giới Thạch bắt giữ trong hơn một năm. Trong tù, Người sáng tác tập thơ chữ Hán nổi tiếng “Nhật ký trong tù” (Ngục trung nhật ký) gồm 133 bài phần lớn là tứ tuyệt. Bốn câu thơ ở trang đầu phần nào thể hiện nội dung chính trong tác phẩm của Người:
“Thân thể ở trong lao,
Tinh thần ở ngoài lao,
Muốn nên sự nghiệp lớn,
Tinh thần càng phải cao”
Tháng 7.1944, Người trở về Pắc Bó, chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 22.12.1944, Người sáng lập Đội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân. Tại Quốc Dân Đại Hội tại Tân Trào (Tuyên Quang) Người được bầu làm Chủ tịch Chính Phủ Lâm Thời và viết Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa (8.1945). Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2.9.1945 tại Quảng trường Ba Đình, trước 50 vạn nhân dân Hà Nội, Người đọc bản Tuyên ngôn độc lập do tự tay Người viết, khai sinh ra nước Việt Nam mới. Người chấp nhận cho một số Đảng phái đối lập tham gia chính quyền (12.1945), ký các văn bản với Pháp như Hiệp định sơ bộ 6.3.1946 và Tạm ước 14.9.1946, tổ chức Tổng tuyển cử thành công bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Trong cuộc Tổng tuyển cử, Người đứng ra ứng cử ở Hà Nội, và trúng cử với số phiếu cao nhất: 98,4%, Quốc hội tôn Người là Người công dân thứ nhất. Trước những âm mưu và hành động xâm lược của thực dân Pháp, Người ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (19.12.1946) kêu gọi toàn thể nhân dân Việt Nam đứng lên chống Pháp: “Không, chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Sau đó, Người lên Việt Bắc lãnh đạo cuộc kháng chiến. Với bút danh Tân Sinh, Người viết tác phẩm Đời sống mới (3.1947), vận động xây dựng cuộc sống mới ở vùng giải phóng. Tháng 10.1947, Người viết tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, một tác phẩm xây dựng và rèn luyện tư tưởng, đạo đức cách mạng, tác phong quần chúng và phương pháp lãnh đạo cho cán bộ, đảng viên. Trong 8 năm, Người đã cùng Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam lãnh đạo quân và dân Việt Nam đánh thắng thực dân Pháp trong nhiều chiến dịch mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ (13.3 đến 7.5.1954) đưa đến việc ký kết Hiệp định Genève, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Sau hiệu định Genève, Người trở về Hà Nội. Tại Đại hội lần thứ ba của Đảng Lao Động Việt Nam, Người được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng. Với cương vị cao nhất về Đảng cũng như Nhà nước, nhưng Người luôn luôn khiêm tốn, giản dị, sống cuộc đời rất thanh bạch. Người chỉ có mấy bộ đồ kaki để dùng trong việc giao tiếp khách, trong các ngày lễ, còn khi tiếp xúc với quần chúng Người thường bận bộ quần áo nâu giản dị, chân đi đôi dép cao su đã mòn gót, ở trong một ngôi nhà sàn bằng gỗ với đồ dùng sinh hoạt đơn sơ. Khi đế quốc Mĩ đưa không quân và hải quân đánh phá miền Bắc, Người ra lời kêu gọi toàn thể đồng bào và chiến sĩ cả nước quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Vì những công lao to lớn đối với dân tộc, đối với phong trào đấu tranh giải phóng của nhân dân lao động trên thế giới, Người được Quốc hội nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa quyết định tặng Huân chương Sao Vàng nhưng Người đã đề nghị để đến ngày miền Nam hoàn toàn được giải phóng, Tổ quốc thông nhất, Nam Bắc một nhà, lúc đó Quốc hội sẽ cho phép đồng bào miền Nam trao cho Người huân chương cao quý đó (1963). Ngày 4.11.1966 Đoàn Chủ Tịch Xô Viết Tối Cao Liên Xô quyết định tặng Huân chương Lênin, nhưng Người cũng đề nghị hoãn việc trao tặng phần thưởng cao quý ấy với lý do: “Đến ngày nhân dân chúng tôi đánh đuổi được bọn đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn đất nước Việt Nam, tôi sẽ đại biểu cho toàn thể đồng bào chúng tôi trân trọng và vui mừng lãnh lấy huân chương mang tên Lênin vĩ đại”. Mặc dù tuổi cao, những năm cuối đời Người vẫn ra sức làm việc, mang hết tâm huyết ra lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Để chuẩn bị cho cuộc ra đi vào cõi vĩnh hằng của mình, từ tháng 5.1965 Người bắt đầu viết bản Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân Việt Nam. Bản Di chúc được Người viết và sửa chữa nhiều lần (tháng 5.1968 và 5.1969) trong đó Người thể hiện sự quan tâm của mình đến mọi đoàn thể, tầng lớp, mọi giới và niềm tin vào sự thắng lợi, vào tương lại của dân tộc.
“Còn non còn nước, còn người,
Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!”
Hồi 9 giờ 47 phút ngày 2.9.1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh mất tại Hà Nội sau một cơn đau tim đột ngột, thọ 79 tuổi. Ngày nay thi hài Người được quàn trong lồng kín đặt trong Lăng của Người ở Quảng trường Ba Đình Hà Nội. Một bảo tang lớn mang tên Người được xây dựng gần Lăng. Thành phố Sài Gòn và nhiều đường phố trong các thành phố trên thế giới mang tên Hồ Chí Minh. Những tác phẩm Người được tập hợp và xuất bản thành bộ Hồ Chí Minh toàn tập (10 tập) và rất nhiều tác phẩm của Người trong các lĩnh vực khác nhau được xuất bản. Tháng 11.1987, tổ chức Giáo Dục, Khoa Học và Văn Hóa Liên Hiệp Quốc (UNESSCO) đã công nhận Hồ Chí Minh là Danh Nhân Văn Hóa của thế giới.

V.H.L.

No comments:

Post a Comment