Lê Hiến Chương[1]
Các
vua Nguyễn từ Gia Long, Minh Mệnh đến Thiệu Trị, Tự Đức đều coi trọng và đánh
giá cao vai trò, vị trí của giáo dục. Khi mới lên ngôi năm 1802, Gia Long đã
từng chỉ dụ: “Khoa mục là con đường bằng phẳng của học trò, thực không thiếu
được, phải nên giáo dục thành tài rồi sau mới thi Hương thi Hội lần lượt cử
hành thì người hiền sẽ nối nhau lên giúp việc”[2].
Minh Mệnh cũng từng khẳng định: “Đạo trị nước phải lấy việc gây dựng nhân tài
làm ưu tiên”[3]. Tinh
thần đó cũng được thể hiện qua lời nói của Thiệu Trị với các đình thần: “Việc
dạy học là chính sự trọng đại của triều đình”[4],
hay như lời dụ của Tự Đức: “Làm việc nước cốt phải được nhân tài, được nhân tài
cốt phải mở khoa thi để chọn học trò”[5].
Đối
với việc xây dựng hệ thống trường lớp, năm 1803, Gia Long cho xây dựng nhà Đốc
học ở Quốc Tử Giám làm nơi học tập cho
tôn sinh - ấm sinh. Đến thời Minh Mệnh, nhà vua cho tôn sử và dựng lại nhà Quốc
Tử Giám trên nền cũ với quy mô to đẹp hơn, đồng thời mở rộng số lượng học viên
bao gồm: Giám sinh (người đỗ Hương cống), Cống sinh (do các phủ, huyện cử lên).
Tôn sinh (người trong họ vua), Ấm sinh (con quan lại từ ngũ phẩm trở lên), Học
sinh (con em thường dân học giỏi).
Với
tư cách là một trung tâm giáo dục đầu não. Hàng năm vào dịp mùa xuân – thu, vua
và các quan đại thần đều đến dự lễ tại đây. Minh Mệnh đã từng răn: “ Nhà Thành
quân trường học cao nhất (chỉ Quốc Tử Giàm) là chỗ đầu phong hóa, mô phạm quan
hệ ở đây”[6].
ở
kinh đô, triều đình còn cho thành lập một số loại hình trường lớp khác dành cho
các vua và tôn thất, con em quan lại trong triều. năm 1807, Gia Long cho đặt
nhà Kinh diên làm nơi giảng sách (3 ngày trong tháng) cho vua và các quan văn
võ từ tam phẩm trở lên. Việc giảng sách ở Kinh diên chỉ bị hoãn vào những khi
việc nước nhiều và khẩn. Bên cạnh đó, một số lớp học như Tập Thiện Đường ( từ
1823). Dục Đức Đường (từ 1869)… cũng được mở dành cho hoàng tử, hoàng đệ. Năm
1850, Tự Đức cho đặt nhà Tôn học để dạy cho con em hoàng thân tuổi từ 12 đến
25.
Cùng
với việc thành lập các trường lớp ở kinh đô, nhà Nguyễn cũng thực hiện những
chính sách nhằm mở rộng hệ thống trường học tới các phủ huyện. Trong thời Gia
Long, về cơ bản các nhà học đã được đặt tới các dinh trấn; năm 1812, triều đình
cho phép các dinh trấn ở Bắc thành lập các lớp sơ học do Tổng giáo phụ trách.
Năm 1824, Minh Mệnh quy định việc xây dựng các trường của trấn (tỉnh), phủ,
huyện theo quy cách thống nhất – quy mô rộng rãi và được nhà nước cấp tiền. Năm
1838, các lớp sơ học được mở tới các huyện miền núi vùng Tây Bắc và các vùng có
nhiều người theo dạo Thiên chúa nhằm làm cho những người: “Bỏ tà giáo chưa khỏi
mờ mịt chẳng biết theo vào đâu, nên phải dạy học them, khiến cho lấy chính đạo
làm chỗ dựa theo”[7], mỗi
phủ, huyện như vậy có từ 2 đến 3 lớp sơ học, không cần thiết phải làm nhà học
và được nhà nước hỗ trợ một phần tiền, gạo trả cho người dạy, đây là một mô
hình trường học do nhà nước và nhân dân cùng làm (Nói theo cách nói ngày nay là
xã hội hóa giáo dục). Đến năm 1853, Tự Đức vẫn có chuẩn khuyến khích các địa
phương: “Để ruộng công tư làm trường hương học để dạy cho con em trong làng”[8].
Năm 1874, triều đình lại có chính sách thành lập các lớp sơ học dạy chữ và
tiếng Kinh dành cho con em các dân tộc thiểu số.
Bên
cạnh các trường Nho học, năm 1866, Tự Đức cho dựng trường học võ ở kinh đô với
các chức quan Chánh, Phó học chính: “Sinh viên lấy Võ cử (Cử nhân võ), sung
vào, anh danh – giáo dưỡng thi Hương (võ) dự sung các trường và hạng quan quân
tình nguyện vào học thì cũng cho”[9].
Cũng từ thời Gia Long, triều đình ban hành quy thức cụ thể về việc dựng Văn
Miếu ở tất cả kinh thành trấn trong cả
nước làm nơi thờ tự Khổng Tử, tiên hiền và các vị tổ học của nhà nước, định lệ
cho các địa phương tế lễ hàng năm nhằm thể hiện truyền thống tôn sư trọng đạo
của dân tộc.
Gắn
liền với hệ thống trường lớp đó nhà Nguyễn đã thi hành nhiều chính sách nhằm
tuyển dụng, đào tạo và phát triển đội ngụ học quan.
Đối
với các trường ở Kinh đô, năm 1803, Gia Long cho đặt các chức Chánh, Phó Đốc
học ở Quốc Tử Giám. Đến năm 1821, Minh Mệnh bỏ các chức qun trên và khôi phục
lại các chức tế Tửu, Tư nghiệp, đặt chức Học chính phụ trách việc học tập của Tôn sinh . Năm 1838, triều đình lại
cử hai viên đại thần kiêm lĩnh công việc của Quốc Tử Giám với các chức Tri sự,
Đề điệu. Ở các học đường (Tập Thiện Đường, Dục Đức Đường…), triều đình đặt các
chức Phụ đạo, Sư bảo, Tán thiện, Bạn độc, Trưởng sử để dạy bảo các hoàng tử,
hoàng đệ. Ở nhà Tôn học của con cháu hoàng thân, hoàng đệ do Tổng quản, Giáo
tập, Thừa biện phụ trách.
Đối
với các địa phương, ngay trong năm lên ngôi, Gia Long đã cho đặt các chức Đốc
học, Trợ giáo ở các trấn Bắc Thành, là nơi vốn có truyền thống học hành. Đối
với vùng Gia Định, triều định lệ mỗi xã lập một lớp học do một người có học, có
đức hạnh (chưa cần bằng cấp) phụ trách. Đến năm 1804, chức học quan đã được đặt
ở các dinh trấn trong cả nước. Tiếp đó, cùng với việc mở rộng trường học, triều
đình đặt thêm các chức Giáo thụ - Huân đạo ở các phủ huyện. Năm 1812, Gia Long
lệnh cho các dinh, trấn chọn những người có học từ 50 tuổi trở lên làm Tổng
giáo để dạy ở các lớp sơ học. Cũng như ở kinh đô, phần lớn các chức học quan ở
các địa phương đầu đời Nguyễn là Tiến sĩ, Hương cống, Sinh đồ thời Hậu Lê. Đây
là một biện pháp mang tính “tình thế’. Khi lên ngội nhận thấy hạn chế của việc
học, Minh Mệnh đã có nhiều biện pháp nhằm thay thế đội ngũ học quan bằng những
người có bằng cấp của bản triều và yêu cầu cao hơn về trình độ. Năm 1823, triều
đình quy định: Giáo quan ở các phủ huyện nếu là Sinh đồ, Hương cống thì phải có
đủ 40 tuổi trở lên, người khác (không có học hàm) phải đủ 50 tuổi trở lên. Năm
1824, nhà vua cho tuyển xét Giám sinh Quốc Tử Giám để chia bổ Huấn đạo các
huyện. Năm 1830 lại cho bổ 142 Tú tài từ 40 tuổi trở lên – sản phẩm của các kỳ
thi Hương – làm Huấn đạo. Đến năm 1856, dưới thời Tự Đức, triều định lệ Cử nhân
đã từng thi Hội từ 40 tuổi trở lên mới được bổ làm giáo chức, còn hạng khác đã
bổ thì rút về. Vào cuối thời Tự Đức, chức học quan phải đạt yêu cầu là Tiến sĩ
– Phó bảng hoặc Cử nhân lão thành.
Nhà
Nguyễn cũng chú trọng tới việc mở rộng đội ngũ học quan tới các miền biên ải và
những vùng dân tộc thiểu số. Dưới thời Thiệu Trị, chức Đốc học – Giáo thụ -
Huấn thụ lần đầu tiên được bổ tới các tỉnh – phủ - huyện vùng biên giới xa xôi
như Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên. Chính sách này được tiếp tục thực hiện
trong thời Tự Đức. Năm 1874, nhà vua “Chuẩn cho các tỉnh, đạo, thổ dân thuộc
hạt có người muốn đi học thì liệu đặt chức dạy học… chuyên về dạy chữ nghĩa, lễ
phép và tiếng Kinh”[10].
Một năm sau đó. Vua lại dụ cho bộ Lễ sai các tỉnh đạo có người thiểu số “…chọn
người làm thầy dạy, hoặc sai mời thầy dạy riêng, hoặc đến nơi giảng tập”[11].
Gắn
liền với việc phát triển đội ngũ học quan là những quy chế thưởng phạt rõ rang
đối với các tầng lớp này nhằm không ngừng nâng cao năng lực của đội ngũ thầy đồ
cũng như thúc đẩy sự phát triển giáo dục. Nhà nước dành cho học quan chế độ
lương bổng thỏa đáng và vị trí xứng đáng trong xã hội.
Từ
năm 1803, Gia Long định quan chế xếp Đốc học Quốc Tử Giám hàm Chánh tứ phẩm,
lương tháng 6 quan tiền, 6 phương gạo, phó Đốc học 5 quan tiền, 5 phương gạo,
năm 1804, triều đình lại định phẩm cấp Đốc học c1c dinh trấn hàm Chánh ngũ
phẩm, lương ngang Tri phủ, Trợ giáo hàng Chánh bát phẩm, lương ngang Tri huyện.
Dưới thời Minh Mệnh quy định chức Giáo thụ ở phủ hàng Chánh thất phẩm, chức
Huấn đạo ở huyện hàng Chánh bát phẩm, chức Tổng giáo ở các xã được trợ cấp 1
phương gạo và 1 quan tiền hàng tháng, thêm vào đó hàng năm các xã phải trích
một phần ruộng học điền để trả công cho thầy.
Trong
quan hệ với các tỉnh thần, mặc dù học quan có phẩm hàm thấp hơn nhưng triều
đình cũng cho phép: “Phàm các viên học chính khi mới đến tỉnh vào ra mắt Tổng
đốc, Tuần phủ dung lễ tham bái, đối với Bố chính, Án sát dùng lễ ngang hàng,
ngõ hầu bên chính, bên giáo mới được cùng trọng”[12].
Chức giảng quan ở các đường, nhà Tôn học được giao toàn quyền dạy bảo đối với
hoàng tử, hoàng đệ, con cháu hoàng thân quốc thích, nhà vua ban cho giảng quan
roi dạy, cho phép đánh cả em vua nếu thấy lười biếng, hu hỏng. Từ thời Minh
Mệnh, học quan ở các phủ huyện được toàn quyền khảo xét và quyết định những học
sinh cống cử lên Quốc Tử Giám và triều đình mà không cần thông qua các quan lại
phủ huyện.
Triều
Nguyễn cũng có những chính sách khảo xét – thưởng phạt công minh đối với các
học quan. Dưới thời Minh Mệnh, một số năm các Đốc học được triệu về kinh để ra
mắt và chịu sự xét hỏi của nhà vua, người có thực tài được bổ vào các bộ, viện,
ai kém thì bị giáng chức, đổi đi hoặc buộc về hưu. Bên cạnh đó, tầng lớp quan
học từ tỉnh đến huyện cũng chịu sự sát hạch hàng năm của Đốc phủ. Năm 1836,
triều đình định lệ khảo xét học thần, chỉ làm các hạng: Cần chức (siêng năng
chức việc); Tuần phận, cung chức (giữ bổn phận làm chức vụ); dung thường ( kém
cỏi tầm thường), theo đó mà định lễ thưởng phạt: thăng, giáng chức, bắt về hưu.
Dưới thời Tự Đức, năm 1852, triều đình đổi lệ sát hạch học quan, theo đó chức
Giáo thụ, Huấn đạo, Học chính, mỗi năm một lần xét, đỗ hạng ưu thì thưởng kỷ
lục 1 thứ. Đốc học đỗ hạng bình và Giáo thụ, Huấn đạo đỗ hạng ưu đều được
thưởng tiền lương 3 tháng, Giáo thụ, Huấn đạo đỗ hạng bình thì thưởng tiền
lương 2 tháng, Giáo thụ, Huấn đạo do Đốc học xét, Đốc học do quan tỉnh xét”[13].
Các quan ở Quốc Tử Giám chịu sự sát hạch của các đại thần, các bộ và cũng như
chịu sự thăng giám, Tế tửu – Tư nghiệp nếu không đạt yêu cầu cũng mất chức.
Để
khảo sát học quan và cũng nhằm khuyến khích việc học hành thi cử, từ thời Minh
Mệnh, triều đình có chính sách thưởng phạt học quan bằng việc căn cứ vào số học
trò đi thi và trình độ của thí sinh. Theo đó học quan nào có nhiều học trò đi
thi, nhiều người đỗ hoặc số học trò đi thi khoa sau nhiều hơn khoa trước thì
được khen thưởng, nơi nào có con số học trò đi thi ít, lại không có người đỗ,
đi thi bỏ quyển trắng, viết không đủ bào thi học quan ở đó phải chịu xử phạt.
năm 1853, lệ này được định lại rõ ràng hơn, việc thưởng bổng và thăng chức của
các học quan căn cứ vào học trò thi đỗ Tú tài, Cử nhân, Phó bảng, Tiến sĩ từ 1
người trở lên. Việc phạt bổng và giáng chức căn cứ vào số bài thi để quyển
trắng, không đủ văn lý từ một quyển trở lên, điều kiện này áp dụng đối với cả
Đốc học, Giáo thụ, Giáo huấn trong các tỉnh có học trò đi thi, không kể học
quan có trực tiếp dạy số học trò đó hay không. Theo đó thì chỉ cần một học trò
đỗ Tú tài thì cả hệ thống học quan trong tỉnh được khen thưởng, và ngược lại
chỉ cần một học trò viết không đủ bài thi cả Đốc học cũng phải phạt.
Quá
trình xây dựng hệ thống trường lớp, học quan đi đối với những chính sách nhằm
khuyến khích việc học hành của các tầng lớp nho sinh, đối tượng chính của nền
giáo dục.
Đối
với học sinh Quốc Tử Giám, các đời vua Nguyễn đều có chính sách quan tâm đặt
biệt, người học ở đây được cấp học bổng, quần áo, dầu, gạo, sách vở, bút
mực…đầy đủ. Hàng năm vào các dịp tế lễ
hoặc mùa xuân, các vua đều thân hành đến khen thưởng cho học trò. Năm 1825,
nhân dịp mừng xuân, Minh Mệnh cho học sinh mỗi người 10 quan tiền, có người cho
là quá hậu, vua nói: “Cho con hát đàn bà hầu hạ thì không nên hậu, chứ học trò
là của báu của nhà nước, ngày nay nuôi để ngày khác dùng, há chẳng nên hậu hay
sao?”[14].
Dưới thời Tự đức, nhà vua cũng nhiều lần thân đến nhà Di Luân giảng học lễ cho
học sinh.
Cũng
từ thời Minh Mệnh, triều đình định lệ cấp học bổng cho học sinh Quốc Tử Giám,
theo đó trong năm cứ 3 tháng 1 lần nhà trường tổ chức khảo hạch học sinh, chia
làm 3 hạng: ưu, bình, thứ. Người nào đạt hạng ưu hoặc có tiến bộ được thưởng
thêm tiền, dầu, gạo, được bổ dụng, người nào kém cỏi lại không tiến bộ bị phạt
từ cắt bổng đến đuổi học.
Các
hoàng tử, hoàng đệ, học sinh ở nhà Tôn học và các lớp học võ – học thuốc – học
ngoại ngữ ở kinh thành hàng năm cũng chịu lệ khảo hạch chặt chẽ như ở Quốc Tử
Giám. Trong thời Nguyễn, việc cho tập ấm, tập cử hầu như không còn nữa. Tự Đức
từng dụ:
“Nhà
nước dủng khoa mục để lấy nhân tài…tuy con của hoàng thân vương công cũng bắt
phải học sách cổ rồi mới làm quan”[15].
Đôió
với học sinh trường tỉnh – phủ - huyện, khi vào học đều được miễn giảm lao dịch
và chịu khảo hạch 1 năm 2 lần, chia là các hạng ưu, binh, thứ, liệt. Học sinh
học giỏi có thể được sung cống vào Quốc Tử Giám hoặc tiến cử về kinh để bổ
dụng. Học sinh trường tỉnh hàng tháng được cấp thêm dầu, đèn. Đến các kỳ thi
Hương thi Hội, học trò ở các tỉnh xa xôi khó khăn ở phía Nam như Bình Định – Quảng Ngãi đều
được cấp lương đi đường.
Về
nội dung giáo dục, nhà Nguyễn vẫn thực hiện giống như các triều đại trước.
Chương trình học tâp vẫn là các sách Tứ thư, Ngũ kinh, học Bắc sử, Việt sử. bên cạnh đó các vua Nguyễn
đã bổ sung thêm một số tài liệu khác ngoài các bộ sách giáo khoa truyền thống,
chẳng hạn năm 1833 Minh Mệnh giao cho bộ lễ tập hợp 80 bài thuộc thể văn tam
trường của nhà Thanh, in thành 31 một chia cho Quốc Tử Giám và học quan ở các
địa phương. Năm 1845, Thiệu Trị sai soạn cuốn: “Thiệu Trị văn quy tựa vận hội
tập” (loại sách âm vận về phép làm thơ – văn dựa trên cuốn Vạn phủ của nhà
Thanh nhưng đầy đủ, rõ ràng), 2 năm sau đó triều đình lại cho khắc in bộ: “Lịch
đại sử tổng luận” ban cho các quan đại thần và các trường trong toàn quốc.
Từ
thời Tự Đức, nhà vua đã có chỉ dụ cho các trường học chú ý đến những nội dung
dạy học thiết thực hơn, yêu cầu học trò phải học thêm cả những lĩnh vực như làm
ruộng, thuế khóa, sai dịch, quân sự, hính luật việc chính hiện thời…[16].
Ngoài
hệ thống trường lớp Nho học, triều Nguyễn cũng cho thành lập trường dạy võ, nhà
học thuốc của Thái y viện (từ năm 1866). Các loại hình trường lớp này cũng đều
phải tuân theo thời gian biểu chặt chẽ, thực hiện đầy đủ các quy chế của việc
khảo xét, giảng sách, làm tập văn…
Triều
Nguyễn cũng là vương triều đầu tiên trong lịch sử có những chính sách nhằm tiếp
cận với khoa học kỹ thuật phương Tây thông qua việc mở các lớp ngoại ngữ và cử
người sang phương Tây du học.
Việc
cử người học tiếng nước ngoài được bắt đầu từ thời Minh Mệnh, năm 1835 nhà vua
có chỉ dụ cho các bộ - viện và quan lại chọn học trò từ 16 tuổi trở lên đưa về
kinh để học văn tự ngoại quốc tại Quán tứ dịch. Các ngôn ngữ được học ở đây gồm
tiếng Pháp, tiếng Xiêm, Lào. Học trò được cấp bổng và tuyển có định lệ khảo
xét, thưởng phạt rõ ràng. Dưới thời Tự Đức, năm 1866, triều đình cho tuyển
người biết cả chữ Hán và tiếng Pháp về kinh để dịch sách Tây sang chữ Hán và
dạy tiếng Pháp. Cũng trong thời gian này Tự Đức đã cử một số đoàn học sinh vào
học ngoại ngữ ở trường Gia Định, mở trường Hành nhân ở Huế và mời một số cố đạo
người Pháp về dạy ở đây, năm 1878 nhà vua lại cho mở trường học tiếng Pháp tại
Nha thương chính Hải Dương. Ngoài ra nhà nước cũng cử người ra nước ngoài học
các nghề đóng tàu, đúc súng, khai mỏ, luyện quân, học tiếng…chính sách này được
bắt đầu từ năm 1878. Cử nhân, Tú tài, học trò, thí sinh, khóa sinh và con em
các quan viên dưới 20 tuổi, người nào thông nghĩa sách, biết chữ và tình nguyện
đi học thì đều chiếu lệ đi Hương Cảng, đi sang tây, cấp cho tiền lệ phí nhưng
hạn cho 5 năm về sát hạch, nếu thành tài thì chiếu lệ cử tu bổ làm quan bổ
dụng”[17].
Song
song với những chính sách giáo dục nói trên là việc tổ chức các kỳ thi Hương,
thi Hội nhằm tuyển dụng nhân tài. Nội dung và cách thức tổ chức các kỳ thi thời
Nguyễn về cơ bản vẫn theo lệ cũ, các kỳ thi Hương, thi Hội vẫn xoay quanh những
câu hỏi về kinh nghĩa, chế, chiếu, thơ phú, văn sách. Từ thời Thiệu Trị, nhà
nước định lệ và mở thêm nội dung thi võ ở kinh đô với 3 ký theo các nội dung:
Mang nặng; múa côn, giáo, gươm; bắn súng và binh pháp. Người đỗ cũng được phân
thành 2 hạng: Cử Võ – Tiến sĩ võ. Ngoài các kỳ thi chính thức được qui định 3
năm 1 lần, nhà Nguyễn cũng mở thêm các kỳ Ân khoa, Chế khoa (Chế khoa cát sĩ
năm 1851, Chế khoa Nhả sĩ năm 1865).
Dưới
thời Nguyễn, các kỳ thi Đình không lấy Trạng nguyên, đặt thêm hạng Phó bảng, đổi
Hương cống là Cử nhân, Sinh đồ là Tú tài (từ năm 1829), từ năm 1851, các trường
thi Hương đều phải định trước số ngạch lấy đỗ trong mỗi ký thi tùy theo tình
hình học tập và số người đi thi của các địa phương. Năm 1880, triều đình lại
yêu cầu các phủ - tỉnh phải định trước số học trò đủ tiêu chuẩn dự thi nhằm
tránh việc số người dự thi Hương quá nhiều. Trong các kỳ thi Hội, nhà nước cho
phép các quan lại, Giám sinh (chưa đỗ Cử nhân), Huấn đạo, Giáo thụ dự thi. Năm
1835, Minh Mệnh định lệ trong kỳ thi Hội mặc dù các trường thi chung đề nhưng
quyển văn của thí sinh từ Quảng Bình vào Nam được chấm riêng với yêu cầu thấp
hơn nhằm khuyến khích việc học tập còn hạn chế ở khu vực này. Các đời vua cũng
nhiều lần tự tay đề thi (ngự đề) cho các trường thi Hương, việc phúc hạch sau
các kỳ thi được các vua Nguyễn rất quan tâm, trong nhiều trường hợp chính bản
thân nhà vua làm việc đó.
Chính
sách giáo dục của nhà Nguyễn trong thế kỷ XIX tuy không tránh khỏi những hạn
chế, song có mặt tích cực đáng được tìm hiểu, tiếp cận có chọn lọc về nhận thức
vai trò, vị trí của giáo dục, về tổ chức học tập, thi cử, xây dựng đội ngũ dạy
học.
[1] Khoa Sử
- ĐHSP Hà Nội
[2] Đai Nam thực lục, Tập III, Chính biên đệ
nhất kỷ II, NXB Sử học, Hà Nội, 1963. Tr. 78
[3] Đai Nam thực lục, Tập IV, Chính biên đệ
nhất kỷ I, NXB Sử học, Hà Nội, 1963. Tr. 212
[4] Đai Nam thực lục, Tập XXVI, Chính biên
đệ tam kỷ III, NXB Sử học, Hà Nội, 1972.
Tr. 282
[5] Đai Nam thực lục, Tập XXIV, Chính biên
đệ tam kỷ VIII, NXB Sử học, Hà Nội, 1976.
Tr. 342
[7] Đai Nam thực lục, Tập XX, Chính biên đệ
nhị kỷ XVI, NXB Sử học, Hà Nội, 1968. Tr. 191.
[8] Đai Nam thực lục, Tập XXVII, Chính biên
đệ tứ kỷ I, NXB Sử học, Hà Nội, 1973. Tr. 410.
[9] Đai Nam thực lục, Tập XXXI, Chính biên
đệ tứ kỷ V, NXB Sử học, Hà Nội, 1974. Tr. 58.
[10] Đai Nam thực lục, Tập XXXIII, Chính biên
đệ nhị kỷ XVI, NXB Sử học, Hà Nội, 1975. Tr. 45.
[11] Đai Nam thực lục, Tập XXXIII, Chính biên
đệ tứ kỷ VII, NXB Sử học, Hà Nội, 1975. Tr. 264.
[12] Đai Nam thực lục, Tập XVIII, Chính biên
đệ tứ kỷ XIV, NXB Sử học, Hà Nội, 1967. Tr. 273.
[13] Đai Nam thực lục, Tập XVII, Chính biên
đệ tứ kỷ I, NXB Sử học, Hà Nội, 1973. Tr. 362.
[14] Đai Nam thực lục, Tập XVII, Chính biên
đệ nhị kỷ III, NXB Sử học, Hà Nội, 1964. Tr. 108.
[15] Đai Nam thực lục, Tập XVII, Chính biên
đệ tứ kỷ VII, NXB Sử học, Hà Nội, 1976. Tr. 19.
[17] Đai Nam thực lục, Tập XXXIV, Chính biên
đệ tứ kỷ VIII, NXB Sử học, Hà Nội, 1976. Tr. 167
No comments:
Post a Comment