Đánh giá về
hệ thống pháp luật triều Nguyễn đã có nhiều nhà sử học, cũng như các luật gia,
luật sư bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau đã đưa ra những nhận xét khác nhau
về hệ thống pháp luật triều Nguyễn nói chung và về Bộ luật Gia Long (Hoàng
triều luật lệ) nói ri6eng. Có ba loại ý kiến cơ bản sau: Loại ý kiến thứ nhất, cho rằng đây là bộ luật “sao chép” bộ luật
nhà Thanh (Trung Quốc) mà đại diện cho loại ý kiến này là sử gia Trần Trọng Kim
(1882 – 1953), học giả người Pháp – P.L.F Phiastre (cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX), luật sư tiến sĩ Phan Văn Trường (1875 – 1933)…ý kiến được khá nhiều nhà
nghiên cứu đồng tình. Loại ý kiến thứ hai
lại cho rằng bộ luật Gia Long “là một bộ luật lớn nhất của chế độ phong kiến
Việt Nam …, đây là một bộ
luật đầy đủ và hoàn chỉnh nhất của nền cổ luật Việt Nam ”[1]. Loại ý kiến thứ ba, trung dung với hai
loại ý kiến trên, cho rằng, luật Gia Long ra đời là kết quả của sự kết thừa
những tinh hoa của nền pháp chế Việt nam trước đó và bộ luật Gia Long cũng chịu
ảnh hưởng không nhỏ của bộ luật nhà Thanh.
1. Sự lựa chọn của Gia Long trong việc hành
xây dựng luật.
Khi nói đến
pháp luật triều Nguyễn, người ta thường nói đến sản phẩm cao nhất là bộ Hoàng triều luật lệ, được Gia Long ban
hành năm 1815 (còn gọi là Bộ luật Gia Long). Bộ luật Gia Long được áp dụng và
là tài liệu cơ bản nhất cho chúng ta nghiên cứu về tình hình pháp luật triều
Nguyễn.
Xét theo quan
điểm lịch sử, chúng ta phải thừa nhận là sang đầu thế kỷ XIX, sau khi đã thâu
tóm toàn bộ đất nước, Gia Long tiếp quản một xã hội đầy rẩy những loạn lạc và
luôn vấp phải sự chống đối của nhiều phía. Vì vậy, yêu cầu trước mắt và lâu dài
buộc Gia Long phải nhanh chóng lập lại trật tự, ổn định đất nước.
Sự ổn định đó
phải được thực hiện bằng việc xây dựng một bộ máy nhà nước phong kiến quân chủ
chuyên chế cao độ với mọi quyền lực đều thuộc về tay nhà Nguyễn và phải dùng
pháp luật làm công cụ để thực hiện sự thống trị giai cấp, một yếu tố không thể
thiếu để đảm bảo sự tồn tại vững chắc của triểu Nguyễn. Trong Lời tựa của bộ
luật Hoàng Việt luật lệ, Gia Long đã
phải thừa nhận: ‘gặp lúc phong hóa suy
đồi, kẻ gian giảo ngày một sinh sôi nảy nở, pháp luật trừng phạt không đủ để
chế ngự điều ác, các điều luật xử tội kẻ gian manh không đủ để ứng dụng. Cho
nên luật lệ, pháp lịnh, quy thức nay cần phải gia tăng nhanh chóng”[2].
Tuy nhiên, đã sau hơn 10 năm cai trị (1802 – 1811), vua quan nhà Nguyễn vẫn rất
lúng túng trong việc tự mình định ra chính sách cai trị đất nước thông qua biên
soạn một bộ luật.
Vào tháng
Giêng năm Tân Mùi (1811), Nguyễn
Vă n Thành được Gia Long giao giữ
chức Tổng tài phụ trách biên soạn bộ luật mới cho triều đại mình, Gia Long với
lời “Dụ” rằng: “Bọn khanh nên hết lòng
khảo xét những pháp lịnh điển hình của các triều, tham hợp với điều luật đời Hồng
Đức và nước Đại Thanh, lấy bỏ cân nhắc mà làm thành sách. Trẫm sẽ tự sửa cho
đúng để ban hành”[3]
Sử gia Trần
Trọng Kim ghi rằng: “Đến năm Ất Hợi
(1815), thì in sách luật ấy phát ra mọi nơi. Bộ luật ấy tuy nói theo luật Hồng
Đức nhưng kỳ thực là chép luật của nhà Thanh và chỉ thay đổi ít nhiều mà thôi[4]. Sau
đó, khi dịch Hoàng Việt luật lệ ra tiếng Pháp, P.L.D. Philastrae, đã so sánh
khá tỷ mỉ từng điều của Hoàng Việt luật lệ với bộ luật nhà Thanh và nhận thấy:
“Sửa đổi lớn nhất của các nhà làm luật An Nam đối với bộ luật nhà Thanh là lược
bỏ rất nhiều điều lệ đi kèm với các điều luật trong bộ luật Trung Hoaß. Phan Vă n
Trường trong luận án Tiến sĩ luật tại Pari (1920) của mình cũng có ý kiến nhận
xét tương tự như P.L.D. Philastre… Gần đây trong “Việt nam thế kỷ XIX” (1802 – 1884), Nguyễn Phan Quang dù tỏ ra khá
thận trọng khi nhận xét về bộ luật Gia Long cũng có lưu ý rằng “trong thực tế
bộ luật Gia Long dựa hẳn vào bộ luât nhà Thanh. Đại bộ phận luật lệ, thậm chí
đến cả chú thích các điều luật, hầu như chép nguyên văn bộ luật nhà Thanh;
những chi tiết thay đổi bớt bỏ, bổ sung trong một số điều luật chiếm một tỷ lệ
không đáng kể”[5].
Nhìn chung
các nhà nghiên cứu đều nhận thấy bộ luật Gia Long của nhà Nguyễn có dựa vào bộ luật nhà Thanh nhưng không sao y mà có chỉnh sửa, thêm bớt cho phù
hợp với ý chí của giai cấp thống trị nhà Nguyễn. Vì sao có sự “sao chép” như
vậy?
Theo chúng
tôi, sự “sao chép” này xuất phát từ lợi ích giai cấp, và chỉ vì lợi ích giai
cấp chứ không phải chỉ là sự thần phục mù quáng của nhà Nguyễn với nhà Thanh.
Ai cũng biết rằng, trong lịch sử nước ta, vương triều Nguyễn được dựng nên bằng
cuộc chiến tranh phản động nhờ các thế lực từ bên ngoài nên triều Nguyễn phải
luôn đối đầu với sự chống đối của nhân. Chính vì lẽ đó để bảo vệ quyền lợi của dòng
họ Nguyễn, vua Gia Long đã chọn luật nhà Thanh, là bộ luật rất khắc nghiệt,
dùng những biện pháp hành hình khốc liệt nhằm trấn áp kẻ thù vừa bị quật ngã và
các lực lượng chống đối khác. Mặc dù, cũng như các triều đại phong kiến trước
đó, pháp luật nhà Nguyễn mang tính chất giai cấp rất công khai và sự thể chế
hóa tư tưởng cơ bản của Nho giáo nhưng có điểm đáng nói là: pháp luật nhà
Nguyễn đã làm mất đi tính dân tộc, thủ tiêu
mọi chế định khá tiến bộ của bộ luật Hồng Đức như các chế định về thừa
kế, về chế độ tài sản giữa vợ chồng, chế định nuôi con nuôi…Các chế định này đã
phản ánh và ghi nhân truyền thống tôn trọng phụ nữ và truyền thống nhân đạo của
dân tộc ta. Điều này thể hiện bộ luật Gia Long ra đời không phải là kết quả của
sự vận động nội tại về kinh tế, văn hóa…của đời sống xã hội Việt Nam
thế kỷ XIX. Vì vậy, pháp luật nhà Nguyễn không thể nào phù hợp với yêu câu phát
triển xã hội Việt Nam
lúc đó. Pháp luật triều Nguyễn không thể trở thành công cụ đắc lực để Nhà nước
củng cố chế độ phong kiến phản động đang suy tàn, lỗi thời, khiến nó càng rơi
vào tình trạng bế tắc, khủng hoảng. Điều đó giải thích vì sao triều Nguyễn thất
bại trước nhiệm vụ lịch sử đặt ra vào giữa thế kỷ XIX.
2. Một vài điểm về hệ thống pháp luật nhà
Nguyễn.
Qua bộ Đại Nam thực lục, chúng ta biết khá
đầy đủ về hoạt động lập pháp của các vua nhà Nguyễn. Toàn bộ luật lệ của nhà
Nguyễn từ Gia Long đến Tự Đức chủ yếu tập hợp trong 3 bộ pháp điển.
Hoàng Việt luật lệ do vua Gia Long ban
hành năm 1815. Theo Đại Nam thực lục, năm 1811, Gia
Long cử Nguyễn Vă n
Thành làm Tổng tài phụ trách việc soạn thảo luật. Năm 1815, bộ luật được hoàn
thành được chính Gia Long phê chuẩn và viết lời tựa. Về hình thức, bộ luật gốm
398 điều, chia làm 22 quyển. Các điều khoản được phân loại và sắp xếp theo thẩm
quyền, chức năng, nhiệm vụ của 6 bộ. Về nội dung, bộ luật có hiệu lực điều
chỉnh rộng rãi mọi lĩnh vực đời sống xã hội: hình sự, hành chính, kinh tế, tài
chính, an ninh quốc phòng, hôn nhân gia đình…Bộ luật này là cơ sở, nền tảng của
pháp luật nhà Nguyễn.
Đại Nam hội điển toát yếu do vua
Minh mệnh ban hành năm 1833. Nhà vua cho Nội các tóm lược toàn bộ các “lệ” của
mình và của Gia Long sắp xếp lại theo phạm vi quản lý từng bộ qui định rõ chức
năng, quyền hạn, nhiệm vụ của quan lại và các cơ quan nhà nước.
Đại Nam hội điển sử lệ do vua Thiệu
Trị ban hành vào năm 1843 là một tập hợp hệ thống các “lệ” của Gia Long và Minh
Mệnh lại được chỉnh sửa tập hợp thành. Các vua Nguyễn này còn tiếp tục ban hành
nhiều chỉ dụ bổ sung cho luật Gia Long.
Như vậy, xét
trên phương diện pháp luật thì, các văn bản pháp luật nhà Nguyễn là một hệ
thống các quy phạm pháp luật được ban hành gồm luật và lệ. “Lệ” ở đây không phải “lệ” làng xã, mà là “lệ” của vua.
“Lệ” ở đây mang tính quy phạm pháp luật, mà một thuật ngữ pháp lý được ban bố
dưới dạng các văn bản pháp luật đơn lẻ như chiếu chỉ, sắc, dụ…buộc cá nhân, tập
thể hoặc mọi người trong phạm vi cả nước phải thi hành.
Riêng về “lệ
của vua”. Chúng ta thấy “lệ” của Gia Long, Minh Mệnh có vai trò khá quan trọng,
thường sử dụng như là nguồn của các luật sau này của triều Nguyễn “Các lệ đời
Gia Long chính là nền móng của nền pháp luật triều Nguyễn”[6].
Do bộ luật Gia Long được sao chép luật nhà Mãn Thanh nên những
quy định, điều luật thường khó hiểu, khó có thể phù hợp với tình hình thực tế ở
nước ta. Vì vậy, các vua Nguyễn luôn phải ban hành thêm nhiều “lệ” và các lệ ấy
mới đích thực là của nhà Nguyễn.
Bộ Hoàng triều luật lệ được nhà Nguyễn ban
hành nhìn chung là bộ luật lớn về quy mô, độ dày… nhưng chưa phải là bộ luật
hoàn chỉnh về hình thức và nội dung, xin chỉ so sánh một số điểm với bộ luật
Hồng Đức mà thôi. Ví như, về hình thức, bộ luật Hồng Đức (Lê triều hình luật)
được vua Lê Thánh Tông ban hành năm 1483, được các triều vua thời Lê mạt bổ
sung thêm sau này gốm 722 điều, 17 chương, chia làm 6 quyển: Bộ luật Gia Long
(1815) gồm 22 quyển, chia thành 7 chương, chỉ riêng về độ dày mà so sánh chúng
ta thấy ngay là bộ luật Gia Long hơn bộ luật Hồng Đức tới 16 quyển, nhưng chỉ
có 398 điều (không kể 30 điều tạp tụng) kém luật Hồng Đức 294 điều. Các điều
luật trong bộ luật Gia Long do bắt chước theo luật nhà Thanh nên thường rất
dài, trong một điều luật vừa có luật, vừa có giải thích luật, lại vừa có lệ.
Chính điều này đã làm cho luật kém hiệu quả, khó áp dụng vì nó được quy định tỷ
mỉ, vụn vặt, càng vụn vặt, tỷ mỉ thì càng không thể đầy đủ ý nghĩa của điều
luật. Đây là vấn đề thuộc về kỹ thuật làm luật. Xin lấy một ví dụ về cùng một trộm cắp trong bà con ăn trộm lẫn nhau.
Theo Lê triều hình luật, quyển 4, chương Đạo tặc (trộm cắp), tội này được qui
định tại 2 điều 439, 440, ngắn gọn rõ ràng:
Điều 439 qui
định: “Bà con ở chung một nhà mà lấy trộm nhau thì bất kể ít nhiều đều xử nhẹ
hơn ăn trộm của người ngoài một bực, ban đêm đục tường khoét vách lấy trộm thì
xử như tội ăn trộm thường”.
Điều 440 ghi:
“Con cháu nhỏ tuổi ở chung với tôn trưởng mà dẫn người ngoài về lấy trộm tiền
của trong nhà thì xử nhẹ hơn ăn trộm thường một bực. Quân trộm đến ăn trộm thì
xử như tội ăn trộm và đền như luật. Ai đưa họ về trộm cũng đồng tội”[7].
Cũng tội danh
này, trong bộ luật Gia Long, quyển 13, Hình luật – đạo tặc hạ (trộm cắp bực 2),
tội Thân thuộc tương đạo (Trong bà
con ăn trộm lẫn nhau) qui định gộp thành 1 điều luật như sau: “Phàm ở chung một
nhà (song thân cưới vợ về) là bà con mà lấy trộm của nhau (cả kẻ dưới và bậc
tôn trưởng) về tiền bạc, của cải thì giảm 5 bậc tội nếu là thường dân, bậc đại
công thì giảm 4 bậc, bậc tiểu công thì giảm 3 bậc, bậc ty ma thì giảm 2 bậc. Kẻ
không phải là thân thuộc thì giảm một bậc và miễn xâm chữ vào mặt”[8].
Đi kèm với điều luật trên là phần giải thích rất dài mà phạm vi bài viết có hạn
chúng tôi không thể nêu ra hết được và cùng với phần giải thích đó còn có 4 lệ hướng dẫn nữa so với luật nhà Lê là
một bước thụt lùi, dài dòng và chồng chéo nhau thực khó áp dụng. Như vậy, chỉ
xét cấu trúc của một điều luật chúng ta thấy rõ kỹ thuật làm luật của triều
Nguyễn do quá lệ thuộc vào việc học cách làm luật của triều Thanh mà pháp luật
nhà Nguyễn làm mất đi sự sáng tạo cần thiết.
Bộ luật Gia
Long là sự thể chế hóa ý thức hệ Tống
Nh o trong điều kiện giai cấp
phong kiến thống trị luôn phải đối đầu với các cuộc khởi nghĩa của nhân dân. Do
vậy, đây là một luật khắc nghiệt hơn so với bộ luật Hồng Đức như phần trên
chúng ta đã nêu.
3. Ảnh hưởng của việc sử dụng pháp luật đến
đời sống xã hội nước ta và hậu quả của nó.
Bộ Hoàng triều luật lệ, chịu ảnh hưởng bộ
luật nhà Thanh, không phải là kết quả của sự vận động nội tại về kinh tế, văn
hóa…của đời sống xã hội Việt Nam
thế kỷ XIX, nên khó có thể phù hợp với tình hình thực tế ở nước ta. Do đó dẫn đến
tình trạng Nhà nước không thể điều hành, quản lý đất nước bằng pháp luật. Đó là
còn chưa nói đến tình trạng không thống nhất của luật pháp triều Nguyễn trong
quá trình thực hiện: có khi lệ của vua
còn có hiệu lực cao hơn cả luật nữa. Chẳng hạn, tháng 7 năm Đinh sửu
(1817), khi thu thuế đối với ruộng đất ấn lậu, bộ hộ tâu: “Năm Gia Long thứ 9
(1819) có lệ phàm ruộng đất lậu, phát giác năm tháng dẫu nhiều mà ngạch thuế
truy thu cũng chỉ lấy 3 năm làm hạn, so với điều luật chép ẩn lậu thuế ruộng
thì chiếu theo phần thuế từng năm mà nộp, hai bên không phù hợp nhau” Vua nói
rằng: “luật như thế nặng quá, cứ theo lệ mà làm”[9].
Trong xã hội
phong kiến Việt Nam ,
“phép vua thua lệ làng”. Bên cạnh hệ thống luật pháp của nhà nước ở trung ương
còn một hệ thống luật tục của các làng xã, “Lệ làng” là những quy ước riêng của
nhân ở mỗi làng, xã thể hiện dưới hình thức các phong tục tập quán của từng địa
phương, có nơi lập thành văn bản dưới dạng của từng địa phương, có nơi lập
thành văn bản dưới dạng “hương ước”, “khoán ước” của riêng làng xã. “Lệ làng”
chỉ có giá trị trong phạm vi một làng. Còn “phép vua” có hiệu lực trong cả
nước. Đây chính là một đặc điểm rất quan trọng trong đời sống pháp luật của xã
hội Việt Nam ,
nếu giai cấp thống trị biết cách dung hòa được giữa “phép vua” và “lệ làng” thì
mới cai trị được. Nói cách khác là nếu pháp luật của vua ban mà gần gũi, phù
hợp phong tục tập quán, đáp ứng với yêu cầu của nhân dân thì “phép vua” mới
được tuân thủ, không bị ca thán, ví như: năm 1882 nhân dịp ra Hà thành nhận lễ thọ
phong của nhà Thanh (Trung Quốc), vua Minh Mệnh khó chịu khi thấy phụ nữ mặc
váy (quần một ống) liền ra lệnh cấm phụ nữ Bắc Hà không được mặc “quần không
đáy” Thế là có sự phản ứng:
“Tháng
sau có chiếu vua ra
Cấm
quần không đáy người ta hãi hùng
Không
đi thì chợ không đông
Đi
thì phải mượn quần chồng sao đang
Có
quần ra quán bán hàng
Không
quần ra đứng đầu làng trông quan”.
Không chỉ có
vậy, sự phản ứng của người dân còn quyết liệt trước những chính sách cai trị hà
khắc, yếu kém bằng việc nổi dậy khởi nghĩa mà theo tính toán của nhiều nhà
nghiên cứu, dưới triều Nguyễn có đến 500 cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ các loại,
riêng thời Gia Long có khoảng 90 cuộc, thời Minh Mệnh có khoảng 250 cuộc khởi
nghĩa, thời Thiệu Trị có khoảng 50 cuộc…Như vậy, cho đến năm 1858, trước khi
thực dân Pháp xâm lược nước ta, xã hội Việt Nam đang ở trong tình trạng đầy khó
khăn, phức tạp mà một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là hiệu lực
của hệ thống pháp luật triều Nguyễn.
Tóm lại, pháp
luật phong kiến Việt Nam
nói chung luôn thể hiện tính giai cấp công khai cũng như không tránh khỏi những
ảnh hưởng từ bên ngoài (pháp luật của các triều đại Trung Quốc). Tuy nhiên,
dưới các triều đại phong kiến tiến bộ, tư tưởng và truyền thống dân tộc sẽ phản
ánh trong hoạt động lập pháp của Nhà nước thông qua các chế định cụ thể. Nội
dung mà các điều khoản qui định đều xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của xã hội
Việt Nam
lúc bấy giờ nên phần nào nó trở thành công cụ đắc lực bảo vệ nhà nước phong
kiến, bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia.
ß
Khoa lịch sử, Đại học KHXH và NV Thành phố Hồ Chí Minh
[1] Hoàng
Việt luật lệ - bản dịch của Nguyễn Quang Thắng, Vũ Trinh, Trần Hựu, NXB Văn hóa
– Thông tin, 1994, Tập I, trích lời dẫn của tác giả bản dịch Nguyễn Quang
Thắng.
[2] Hoàng
Việt luật lệ - bản dịch của Nguyễn Quang Thắng, Vũ Trinh, Trần Hựu, NXB Văn hóa
– Thông tin, 1994, Tập I, tr. 2
[3] Đại Nam
thực lục chính biên, Quốc sử quán triều Nguyễn, tập IV, tổ dịch Viện sử học,
NXB Sử học, Hà Nội, 1963, tr. 106
ß
Trích theo bài viết của PGS.TS Nguyễn Phan Quang trong: Mấy vấn đề về quản lý nhà
nước và củng cố pháp quyền trong lịch sử Việt Nam , tập II, NXB Chính trị quốc
gia, 1998, tr. 81 - 94
[6] Mấy vấn
đề về quản lý nhà nước và củng cố pháp quyền trong lịch sử Việt Nam .
Nhiều tác giả, Tập II, NXB Chính trị quốc gia, 1998, tr. 67
[7] Lê triều
hình luật, bản dịch của Nguyễn Quang Thắng, NXB Văn hóa – Thông tin, Hà Nội,
1998, tr. 237.
[8] Hoàng
triều luật lệ - bản dịch của Nguyễn Quang Thắng, Vũ Trinh, Trần Hựu, NXB Văn
hóa – Thông tin, Tập IV, tr. 618 – 623.
[9] Đại Nam
thực lục chính biên, Quốc sử quán triều Nguyễn, tập IV, tổ dịch Viện Sử học,
NXB Sử học, Hà Nội, 1963, tr. 329.
No comments:
Post a Comment