Tuesday, May 10, 2016

MẤY VẤN ĐỀ VỀ HỆ THỐNG PHÁP LUẬT THỜI NGUYỄN (1802 – 1883)



Phan Thị Ngọc Thuß

Đánh giá về hệ thống pháp luật triều Nguyễn đã có nhiều nhà sử học, cũng như các luật gia, luật sư bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau đã đưa ra những nhận xét khác nhau về hệ thống pháp luật triều Nguyễn nói chung và về Bộ luật Gia Long (Hoàng triều luật lệ) nói ri6eng. Có ba loại ý kiến cơ bản sau: Loại ý kiến thứ nhất, cho rằng đây là bộ luật “sao chép” bộ luật nhà Thanh (Trung Quốc) mà đại diện cho loại ý kiến này là sử gia Trần Trọng Kim (1882 – 1953), học giả người Pháp – P.L.F Phiastre (cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX), luật sư tiến sĩ Phan Văn Trường (1875 – 1933)…ý kiến được khá nhiều nhà nghiên cứu đồng tình. Loại ý kiến thứ hai lại cho rằng bộ luật Gia Long “là một bộ luật lớn nhất của chế độ phong kiến Việt Nam…, đây là một bộ luật đầy đủ và hoàn chỉnh nhất của nền cổ luật Việt Nam[1]. Loại ý kiến thứ ba, trung dung với hai loại ý kiến trên, cho rằng, luật Gia Long ra đời là kết quả của sự kết thừa những tinh hoa của nền pháp chế Việt nam trước đó và bộ luật Gia Long cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ của bộ luật nhà Thanh.
1. Sự lựa chọn của Gia Long trong việc hành xây dựng luật.
Khi nói đến pháp luật triều Nguyễn, người ta thường nói đến sản phẩm cao nhất là bộ Hoàng triều luật lệ, được Gia Long ban hành năm 1815 (còn gọi là Bộ luật Gia Long). Bộ luật Gia Long được áp dụng và là tài liệu cơ bản nhất cho chúng ta nghiên cứu về tình hình pháp luật triều Nguyễn.
Xét theo quan điểm lịch sử, chúng ta phải thừa nhận là sang đầu thế kỷ XIX, sau khi đã thâu tóm toàn bộ đất nước, Gia Long tiếp quản một xã hội đầy rẩy những loạn lạc và luôn vấp phải sự chống đối của nhiều phía. Vì vậy, yêu cầu trước mắt và lâu dài buộc Gia Long phải nhanh chóng lập lại trật tự, ổn định đất nước.
Sự ổn định đó phải được thực hiện bằng việc xây dựng một bộ máy nhà nước phong kiến quân chủ chuyên chế cao độ với mọi quyền lực đều thuộc về tay nhà Nguyễn và phải dùng pháp luật làm công cụ để thực hiện sự thống trị giai cấp, một yếu tố không thể thiếu để đảm bảo sự tồn tại vững chắc của triểu Nguyễn. Trong Lời tựa của bộ luật Hoàng Việt luật lệ, Gia Long đã phải thừa nhận: ‘gặp lúc phong hóa suy đồi, kẻ gian giảo ngày một sinh sôi nảy nở, pháp luật trừng phạt không đủ để chế ngự điều ác, các điều luật xử tội kẻ gian manh không đủ để ứng dụng. Cho nên luật lệ, pháp lịnh, quy thức nay cần phải gia tăng nhanh chóng”[2]. Tuy nhiên, đã sau hơn 10 năm cai trị (1802 – 1811), vua quan nhà Nguyễn vẫn rất lúng túng trong việc tự mình định ra chính sách cai trị đất nước thông qua biên soạn một bộ luật.
Vào tháng Giêng năm Tân Mùi (1811), Nguyễn n Thành được Gia Long giao giữ chức Tổng tài phụ trách biên soạn bộ luật mới cho triều đại mình, Gia Long với lời “Dụ” rằng: “Bọn khanh nên hết lòng khảo xét những pháp lịnh điển hình của các triều, tham hợp với điều luật đời Hồng Đức và nước Đại Thanh, lấy bỏ cân nhắc mà làm thành sách. Trẫm sẽ tự sửa cho đúng để ban hành”[3]
Sử gia Trần Trọng Kim ghi rằng: “Đến năm Ất Hợi (1815), thì in sách luật ấy phát ra mọi nơi. Bộ luật ấy tuy nói theo luật Hồng Đức nhưng kỳ thực là chép luật của nhà Thanh và chỉ thay đổi ít nhiều mà thôi[4]. Sau đó, khi dịch Hoàng Việt luật lệ ra tiếng Pháp, P.L.D. Philastrae, đã so sánh khá tỷ mỉ từng điều của Hoàng Việt luật lệ với bộ luật nhà Thanh và nhận thấy: “Sửa đổi lớn nhất của các nhà làm luật An Nam đối với bộ luật nhà Thanh là lược bỏ rất nhiều điều lệ đi kèm với các điều luật trong bộ luật Trung Hoaß. Phan n Trường trong luận án Tiến sĩ luật tại Pari (1920) của mình cũng có ý kiến nhận xét tương tự như P.L.D. Philastre… Gần đây trong “Việt nam thế kỷ XIX” (1802 – 1884), Nguyễn Phan Quang dù tỏ ra khá thận trọng khi nhận xét về bộ luật Gia Long cũng có lưu ý rằng “trong thực tế bộ luật Gia Long dựa hẳn vào bộ luât nhà Thanh. Đại bộ phận luật lệ, thậm chí đến cả chú thích các điều luật, hầu như chép nguyên văn bộ luật nhà Thanh; những chi tiết thay đổi bớt bỏ, bổ sung trong một số điều luật chiếm một tỷ lệ không đáng kể”[5].
Nhìn chung các nhà nghiên cứu đều nhận thấy bộ luật Gia Long của nhà Nguyễn có dựa vào bộ luật nhà Thanh nhưng không sao y mà có chỉnh sửa, thêm bớt cho phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị nhà Nguyễn. Vì sao có sự “sao chép” như vậy?
Theo chúng tôi, sự “sao chép” này xuất phát từ lợi ích giai cấp, và chỉ vì lợi ích giai cấp chứ không phải chỉ là sự thần phục mù quáng của nhà Nguyễn với nhà Thanh. Ai cũng biết rằng, trong lịch sử nước ta, vương triều Nguyễn được dựng nên bằng cuộc chiến tranh phản động nhờ các thế lực từ bên ngoài nên triều Nguyễn phải luôn đối đầu với sự chống đối của nhân. Chính vì lẽ đó để bảo vệ quyền lợi của dòng họ Nguyễn, vua Gia Long đã chọn luật nhà Thanh, là bộ luật rất khắc nghiệt, dùng những biện pháp hành hình khốc liệt nhằm trấn áp kẻ thù vừa bị quật ngã và các lực lượng chống đối khác. Mặc dù, cũng như các triều đại phong kiến trước đó, pháp luật nhà Nguyễn mang tính chất giai cấp rất công khai và sự thể chế hóa tư tưởng cơ bản của Nho giáo nhưng có điểm đáng nói là: pháp luật nhà Nguyễn đã làm mất đi tính dân tộc, thủ tiêu  mọi chế định khá tiến bộ của bộ luật Hồng Đức như các chế định về thừa kế, về chế độ tài sản giữa vợ chồng, chế định nuôi con nuôi…Các chế định này đã phản ánh và ghi nhân truyền thống tôn trọng phụ nữ và truyền thống nhân đạo của dân tộc ta. Điều này thể hiện bộ luật Gia Long ra đời không phải là kết quả của sự vận động nội tại về kinh tế, văn hóa…của đời sống xã hội Việt Nam thế kỷ XIX. Vì vậy, pháp luật nhà Nguyễn không thể nào phù hợp với yêu câu phát triển xã hội Việt Nam lúc đó. Pháp luật triều Nguyễn không thể trở thành công cụ đắc lực để Nhà nước củng cố chế độ phong kiến phản động đang suy tàn, lỗi thời, khiến nó càng rơi vào tình trạng bế tắc, khủng hoảng. Điều đó giải thích vì sao triều Nguyễn thất bại trước nhiệm vụ lịch sử đặt ra vào giữa thế kỷ XIX.
2. Một vài điểm về hệ thống pháp luật nhà Nguyễn.
Qua bộ Đại Nam thực lục, chúng ta biết khá đầy đủ về hoạt động lập pháp của các vua nhà Nguyễn. Toàn bộ luật lệ của nhà Nguyễn từ Gia Long đến Tự Đức chủ yếu tập hợp trong 3 bộ pháp điển.
Hoàng Việt luật lệ do vua Gia Long ban hành năm 1815. Theo Đại Nam thực lục, năm 1811, Gia Long cử Nguyễn n Thành làm Tổng tài phụ trách việc soạn thảo luật. Năm 1815, bộ luật được hoàn thành được chính Gia Long phê chuẩn và viết lời tựa. Về hình thức, bộ luật gốm 398 điều, chia làm 22 quyển. Các điều khoản được phân loại và sắp xếp theo thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ của 6 bộ. Về nội dung, bộ luật có hiệu lực điều chỉnh rộng rãi mọi lĩnh vực đời sống xã hội: hình sự, hành chính, kinh tế, tài chính, an ninh quốc phòng, hôn nhân gia đình…Bộ luật này là cơ sở, nền tảng của pháp luật nhà Nguyễn.
Đại Nam hội điển toát yếu do vua Minh mệnh ban hành năm 1833. Nhà vua cho Nội các tóm lược toàn bộ các “lệ” của mình và của Gia Long sắp xếp lại theo phạm vi quản lý từng bộ qui định rõ chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ của quan lại và các cơ quan nhà nước.
Đại Nam hội điển sử lệ do vua Thiệu Trị ban hành vào năm 1843 là một tập hợp hệ thống các “lệ” của Gia Long và Minh Mệnh lại được chỉnh sửa tập hợp thành. Các vua Nguyễn này còn tiếp tục ban hành nhiều chỉ dụ bổ sung cho luật Gia Long.
Như vậy, xét trên phương diện pháp luật thì, các văn bản pháp luật nhà Nguyễn là một hệ thống các quy phạm pháp luật được ban hành gồm luật và lệ. “Lệ” ở đây không phải “lệ” làng xã, mà là “lệ” của vua. “Lệ” ở đây mang tính quy phạm pháp luật, mà một thuật ngữ pháp lý được ban bố dưới dạng các văn bản pháp luật đơn lẻ như chiếu chỉ, sắc, dụ…buộc cá nhân, tập thể hoặc mọi người trong phạm vi cả nước phải thi hành.
Riêng về “lệ của vua”. Chúng ta thấy “lệ” của Gia Long, Minh Mệnh có vai trò khá quan trọng, thường sử dụng như là nguồn của các luật sau này của triều Nguyễn “Các lệ đời Gia Long chính là nền móng của nền pháp luật triều Nguyễn”[6]. Do  bộ luật Gia Long được sao chép luật nhà Mãn Thanh nên những quy định, điều luật thường khó hiểu, khó có thể phù hợp với tình hình thực tế ở nước ta. Vì vậy, các vua Nguyễn luôn phải ban hành thêm nhiều “lệ” và các lệ ấy mới đích thực là của nhà Nguyễn.
Bộ Hoàng triều luật lệ được nhà Nguyễn ban hành nhìn chung là bộ luật lớn về quy mô, độ dày… nhưng chưa phải là bộ luật hoàn chỉnh về hình thức và nội dung, xin chỉ so sánh một số điểm với bộ luật Hồng Đức mà thôi. Ví như, về hình thức, bộ luật Hồng Đức (Lê triều hình luật) được vua Lê Thánh Tông ban hành năm 1483, được các triều vua thời Lê mạt bổ sung thêm sau này gốm 722 điều, 17 chương, chia làm 6 quyển: Bộ luật Gia Long (1815) gồm 22 quyển, chia thành 7 chương, chỉ riêng về độ dày mà so sánh chúng ta thấy ngay là bộ luật Gia Long hơn bộ luật Hồng Đức tới 16 quyển, nhưng chỉ có 398 điều (không kể 30 điều tạp tụng) kém luật Hồng Đức 294 điều. Các điều luật trong bộ luật Gia Long do bắt chước theo luật nhà Thanh nên thường rất dài, trong một điều luật vừa có luật, vừa có giải thích luật, lại vừa có lệ. Chính điều này đã làm cho luật kém hiệu quả, khó áp dụng vì nó được quy định tỷ mỉ, vụn vặt, càng vụn vặt, tỷ mỉ thì càng không thể đầy đủ ý nghĩa của điều luật. Đây là vấn đề thuộc về kỹ thuật làm luật. Xin lấy một ví dụ về cùng một trộm cắp trong bà con ăn trộm lẫn nhau. Theo Lê triều hình luật, quyển 4, chương Đạo tặc (trộm cắp), tội này được qui định tại 2 điều 439, 440, ngắn gọn rõ ràng:
Điều 439 qui định: “Bà con ở chung một nhà mà lấy trộm nhau thì bất kể ít nhiều đều xử nhẹ hơn ăn trộm của người ngoài một bực, ban đêm đục tường khoét vách lấy trộm thì xử như tội ăn trộm thường”.
Điều 440 ghi: “Con cháu nhỏ tuổi ở chung với tôn trưởng mà dẫn người ngoài về lấy trộm tiền của trong nhà thì xử nhẹ hơn ăn trộm thường một bực. Quân trộm đến ăn trộm thì xử như tội ăn trộm và đền như luật. Ai đưa họ về trộm cũng đồng tội”[7].
Cũng tội danh này, trong bộ luật Gia Long, quyển 13, Hình luật – đạo tặc hạ (trộm cắp bực 2), tội Thân thuộc tương đạo (Trong bà con ăn trộm lẫn nhau) qui định gộp thành 1 điều luật như sau: “Phàm ở chung một nhà (song thân cưới vợ về) là bà con mà lấy trộm của nhau (cả kẻ dưới và bậc tôn trưởng) về tiền bạc, của cải thì giảm 5 bậc tội nếu là thường dân, bậc đại công thì giảm 4 bậc, bậc tiểu công thì giảm 3 bậc, bậc ty ma thì giảm 2 bậc. Kẻ không phải là thân thuộc thì giảm một bậc và miễn xâm chữ vào mặt”[8]. Đi kèm với điều luật trên là phần giải thích rất dài mà phạm vi bài viết có hạn chúng tôi không thể nêu ra hết được và cùng với phần giải thích đó còn có 4 lệ hướng dẫn nữa so với luật nhà Lê là một bước thụt lùi, dài dòng và chồng chéo nhau thực khó áp dụng. Như vậy, chỉ xét cấu trúc của một điều luật chúng ta thấy rõ kỹ thuật làm luật của triều Nguyễn do quá lệ thuộc vào việc học cách làm luật của triều Thanh mà pháp luật nhà Nguyễn làm mất đi sự sáng tạo cần thiết.
Bộ luật Gia Long là sự thể chế hóa ý thức hệ Tống Nho trong điều kiện giai cấp phong kiến thống trị luôn phải đối đầu với các cuộc khởi nghĩa của nhân dân. Do vậy, đây là một luật khắc nghiệt hơn so với bộ luật Hồng Đức như phần trên chúng ta đã nêu.
3. Ảnh hưởng của việc sử dụng pháp luật đến đời sống xã hội nước ta và hậu quả của nó.
Bộ Hoàng triều luật lệ, chịu ảnh hưởng bộ luật nhà Thanh, không phải là kết quả của sự vận động nội tại về kinh tế, văn hóa…của đời sống xã hội Việt Nam thế kỷ XIX, nên khó có thể phù hợp với tình hình thực tế ở nước ta. Do đó dẫn đến tình trạng Nhà nước không thể điều hành, quản lý đất nước bằng pháp luật. Đó là còn chưa nói đến tình trạng không thống nhất của luật pháp triều Nguyễn trong quá trình thực hiện: có khi lệ của vua còn có hiệu lực cao hơn cả luật nữa. Chẳng hạn, tháng 7 năm Đinh sửu (1817), khi thu thuế đối với ruộng đất ấn lậu, bộ hộ tâu: “Năm Gia Long thứ 9 (1819) có lệ phàm ruộng đất lậu, phát giác năm tháng dẫu nhiều mà ngạch thuế truy thu cũng chỉ lấy 3 năm làm hạn, so với điều luật chép ẩn lậu thuế ruộng thì chiếu theo phần thuế từng năm mà nộp, hai bên không phù hợp nhau” Vua nói rằng: “luật như thế nặng quá, cứ theo lệ mà làm”[9].
Trong xã hội phong kiến Việt Nam, “phép vua thua lệ làng”. Bên cạnh hệ thống luật pháp của nhà nước ở trung ương còn một hệ thống luật tục của các làng xã, “Lệ làng” là những quy ước riêng của nhân ở mỗi làng, xã thể hiện dưới hình thức các phong tục tập quán của từng địa phương, có nơi lập thành văn bản dưới dạng của từng địa phương, có nơi lập thành văn bản dưới dạng “hương ước”, “khoán ước” của riêng làng xã. “Lệ làng” chỉ có giá trị trong phạm vi một làng. Còn “phép vua” có hiệu lực trong cả nước. Đây chính là một đặc điểm rất quan trọng trong đời sống pháp luật của xã hội Việt Nam, nếu giai cấp thống trị biết cách dung hòa được giữa “phép vua” và “lệ làng” thì mới cai trị được. Nói cách khác là nếu pháp luật của vua ban mà gần gũi, phù hợp phong tục tập quán, đáp ứng với yêu cầu của nhân dân thì “phép vua” mới được tuân thủ, không bị ca thán, ví như: năm 1882 nhân dịp ra Hà thành nhận lễ thọ phong của nhà Thanh (Trung Quốc), vua Minh Mệnh khó chịu khi thấy phụ nữ mặc váy (quần một ống) liền ra lệnh cấm phụ nữ Bắc Hà không được mặc “quần không đáy” Thế là có sự phản ứng:
            “Tháng sau có chiếu vua ra
            Cấm quần không đáy người ta hãi hùng
            Không đi thì chợ không đông
            Đi thì phải mượn quần chồng sao đang
            Có quần ra quán bán hàng
            Không quần ra đứng đầu làng trông quan”.
Không chỉ có vậy, sự phản ứng của người dân còn quyết liệt trước những chính sách cai trị hà khắc, yếu kém bằng việc nổi dậy khởi nghĩa mà theo tính toán của nhiều nhà nghiên cứu, dưới triều Nguyễn có đến 500 cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ các loại, riêng thời Gia Long có khoảng 90 cuộc, thời Minh Mệnh có khoảng 250 cuộc khởi nghĩa, thời Thiệu Trị có khoảng 50 cuộc…Như vậy, cho đến năm 1858, trước khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, xã hội Việt Nam đang ở trong tình trạng đầy khó khăn, phức tạp mà một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là hiệu lực của hệ thống pháp luật triều Nguyễn.
Tóm lại, pháp luật phong kiến Việt Nam nói chung luôn thể hiện tính giai cấp công khai cũng như không tránh khỏi những ảnh hưởng từ bên ngoài (pháp luật của các triều đại Trung Quốc). Tuy nhiên, dưới các triều đại phong kiến tiến bộ, tư tưởng và truyền thống dân tộc sẽ phản ánh trong hoạt động lập pháp của Nhà nước thông qua các chế định cụ thể. Nội dung mà các điều khoản qui định đều xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ nên phần nào nó trở thành công cụ đắc lực bảo vệ nhà nước phong kiến, bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia.




ß Khoa lịch sử, Đại học KHXH và NV Thành phố Hồ Chí Minh
[1] Hoàng Việt luật lệ - bản dịch của Nguyễn Quang Thắng, Vũ Trinh, Trần Hựu, NXB Văn hóa – Thông tin, 1994, Tập I, trích lời dẫn của tác giả bản dịch Nguyễn Quang Thắng.
[2] Hoàng Việt luật lệ - bản dịch của Nguyễn Quang Thắng, Vũ Trinh, Trần Hựu, NXB Văn hóa – Thông tin, 1994, Tập I, tr. 2
[3] Đại Nam thực lục chính biên, Quốc sử quán triều Nguyễn, tập IV, tổ dịch Viện sử học, NXB Sử học, Hà Nội, 1963, tr. 106
[4] Trần Trọng Kim – Việt Nam sử lược. NXB Văn hóa – thông tin. 2002, quyển V, tr. 444
ß Trích theo bài viết của PGS.TS Nguyễn Phan Quang trong: Mấy vấn đề về quản lý nhà nước và củng cố pháp quyền trong lịch sử Việt Nam, tập II, NXB Chính trị quốc gia, 1998, tr. 81 - 94
[5] Nguyễn Phan Quang – Việt Nam thế kỷ XIX (1802 – 1884), NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1999, tr. 21.
[6] Mấy vấn đề về quản lý nhà nước và củng cố pháp quyền trong lịch sử Việt Nam. Nhiều tác giả, Tập II, NXB Chính trị quốc gia, 1998, tr. 67
[7] Lê triều hình luật, bản dịch của Nguyễn Quang Thắng, NXB Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 1998, tr. 237.
[8] Hoàng triều luật lệ - bản dịch của Nguyễn Quang Thắng, Vũ Trinh, Trần Hựu, NXB Văn hóa – Thông tin, Tập IV, tr. 618 – 623.
[9] Đại Nam thực lục chính biên, Quốc sử quán triều Nguyễn, tập IV, tổ dịch Viện Sử học, NXB Sử học, Hà Nội, 1963, tr. 329.

No comments:

Post a Comment