Friday, May 20, 2016

HOÀN DIỆU (1829-1882)


Nguyên tên là Hoàng Kim Tích, tự Quang Viễn, hiệu Tĩnh Trai, sinh ngày 10 tháng 2 năm Kỷ Sửu (25.3.1829). Quê làng Xuân Đài (vì thế dân gian thường gọi “cụ Hoàng Xuân Đài”) huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Thân phụ qua đời lúc còn nhỏ nhưng ông vẫn quyết chí học hành. Năm Mậu Thân (1848), ông đậu Cử nhân, đến năm Quý Sửu (1853) đậu Phó bảng. Ông được bổ làm Tri phủ Tuy Phước, tỉnh Bình Định, sau thăng Án sát Nam Định, rồi làm Bố chánh Bắc Ninh. Bắc Ninh là nơi khó cai trị nên đến thời Hoàng Diệu làm Bố chánh, được dân ca tụng, khiến vua Tự Đức* phải ban khen “Bắc chư dân, phi Hoàng Diệu vật năng” (cai trị dân tỉnh Bắc, phi Hoàng Diệu ra không ai hơn). Năm Quý Dậu (1873) Hoàng Diệu được bổ Tham Tri Bộ Binh rồi Tham tri Bộ Lại kiêm Quản Đô Sát Viện Đại Thần. Năm 1879 ông làm Tổng Đốc An Tĩnh, năm 1880 làm Tổng đốc Hà Ninh tức Hà Nội và Bắc Ninh. Năm Nhâm Ngọ (1882) ngày 8 tháng 3 (tức 25.4.1882) quân Pháp do Henri Rivière đem pháo thuyền ra đánh thành Hà Nội. Mặc dù triều đình cho rằng không thể chống nổi, Hoàng Diệu vẫn cùng quân sĩ uống máu ăn thề, cùng còn mất với thành. Ông đích thân lên mặt thành cửa Bắc đốc chiến chống giữ. Nhưng có một số kẻ làm phản đốt kho sung, thành bị vỡ, quân Pháp kéo vào. Ông viết bài biểu, tường trình sự việc rồi đến Võ miếu thắt cổ tự tận. Ngày nay ở ấp Thái Hà quận Đống Đa, Hà Nội có đền Trung Liệt thờ Hoàng Diệu và Nguyễn Tri Phương. Ông có một số sáng tác, nhưng những tác phẩm của ông chưa thu thập được chỉ còn lại bài Trần tình biểu bằng chữ Hán và bài thơ Nôm Qua sông.

V.L.H.

No comments:

Post a Comment