Nguyên tên là Hoàng Kim Tích, tự Quang Viễn, hiệu Tĩnh Trai, sinh ngày
10 tháng 2 năm Kỷ Sửu (25.3.1829). Quê làng Xuân Đài (vì thế dân gian thường gọi
“cụ Hoàng Xuân Đài”) huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Thân phụ
qua đời lúc còn nhỏ nhưng ông vẫn quyết chí học hành. Năm Mậu Thân (1848), ông
đậu Cử nhân, đến năm Quý Sửu (1853) đậu Phó bảng. Ông được bổ làm Tri phủ Tuy
Phước, tỉnh Bình Định, sau thăng Án sát Nam Định, rồi làm Bố chánh Bắc Ninh. Bắc
Ninh là nơi khó cai trị nên đến thời Hoàng Diệu làm Bố chánh, được dân ca tụng,
khiến vua Tự Đức* phải ban khen “Bắc chư dân, phi Hoàng Diệu vật năng” (cai trị
dân tỉnh Bắc, phi Hoàng Diệu ra không ai hơn). Năm Quý Dậu (1873) Hoàng Diệu được
bổ Tham Tri Bộ Binh rồi Tham tri Bộ Lại kiêm Quản Đô Sát Viện Đại Thần. Năm
1879 ông làm Tổng Đốc An Tĩnh, năm 1880 làm Tổng đốc Hà Ninh tức Hà Nội và Bắc
Ninh. Năm Nhâm Ngọ (1882) ngày 8 tháng 3 (tức 25.4.1882) quân Pháp do Henri
Rivière đem pháo thuyền ra đánh thành Hà Nội. Mặc dù triều đình cho rằng không
thể chống nổi, Hoàng Diệu vẫn cùng quân sĩ uống máu ăn thề, cùng còn mất với
thành. Ông đích thân lên mặt thành cửa Bắc đốc chiến chống giữ. Nhưng có một số
kẻ làm phản đốt kho sung, thành bị vỡ, quân Pháp kéo vào. Ông viết bài biểu, tường
trình sự việc rồi đến Võ miếu thắt cổ tự tận. Ngày nay ở ấp Thái Hà quận Đống
Đa, Hà Nội có đền Trung Liệt thờ Hoàng Diệu và Nguyễn Tri Phương. Ông có một số
sáng tác, nhưng những tác phẩm của ông chưa thu thập được chỉ còn lại bài Trần tình biểu bằng chữ Hán và bài thơ
Nôm Qua sông.
V.L.H.
No comments:
Post a Comment