Trong thời
gian trị vì của mình (1820 – 1841), vua Minh Mệnh đã định ra một số chế độ về
mặt tổ chức, nhằm sắp xếp bộ máy nhà nước theo hướng ngày càng thể hiện quyền
lực tập trung của nhà vua. Mục đích của việc hoàn chỉnh chế độ quan lại được
nêu rõ trong Dụ định quan chế tháng 8
năm Đinh Hợi (1827). Kèm theo chỉ dụ là một bản qui định về phẩm cấp và chức vụ
của quan chức từ trung ương tới địa phương được vua phê chuẩn[1].
Ngay sau đó,
vua sai đình thần biên soạn một bộ sách lấy tên là Bách ty chức chế, cử Nguyễn Hữu Thận làm Tổng tài, Thân Văn Quyền,
Nguyễn Công Trứ, Lê Văn Đức, Lý Văn Phúc sung chức Toản tu làm việc cùng 30
thuộc viên. Tháng 12 năm Quý Tỵ (1883), sách được làm xong, gồm 14 quyển. Chỉ
dụ ban hành sách này thể hiện quyết tâm của vua Minh Mệnh muốn tổ chức hoạt
động hành chính nhà nước thành phép tắc, có tính chuyên trách và làm chuẩn mực
cho đời sau: “Đường lối trị nước phải có thể chế chủ yếu, nêu rõ điển tắc để
giữ lấy mà theo mãi mãi. Bộ sách này mới được sửa lại một lần dẫu chưa mười
phần hoàn bị nhưng trong đó phân từng ngành chia từng mối, cũng có thề đem thi
hành được. Vậy ra lệnh cho bộ lại sao chép cho các nha môn trong kinh ngoài
trấn tuân theo”[2]. Sang
năm Giáp Ngọ (1834), sách được ban hành với tên Hội điển toát yếu, một văn bản pháp luật quan trọng về chức trách
của cơ quan nhà nước triều Nguyễn.
Dụ định quan chế (1827) và Hội điển toát yếu (1834) đã qui định cụ
thể chức vị và chức vụ của quan lại từ Lục bộ, Nội các, Cơ mật viện, Hàn lâm viện,
Đô sát viện. Đại lý tự, Thông chính sứ ty…đến các tỉnh, phủ, huyện. Việc ban
hành và áp dụng trên toàn quốc những qui định trong các văn bản này là một bước
làm cho “trong ngoài nhất thể” – theo cách nói của Minh Mệnh – tức là thống
nhất hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương tới địa phương.
Về cách thức
biên soạn Hội điển toát yếu (1834) có
lời viết:
“Để tỏ rõ
pháp điển sẵn có, tất phải châm chước xưa nay, so đi xét lại”[3].
Thái độ của vua Minh Mệnh khi tiến hành tổ chức lại hệ thống hành chính nhà
nước là đánh giá cao thời Lê Thánh Tông: “Nước Việt ta quan chế các đời duy có
chế độ đời Lê Thánh Tông, so với Bắc Triều còn kỹ càng hơn”[4],
“Thánh Tông…lập ra pháp chế, việc gì cũng có thể lưu lại mãi về sau”[5] .
Theo quy định lúc bấy giờ, triều Lê Thánh Tông “cho 6 bộ nắm việc đại cương, 6
khoa làm việc giám sát những việc trái phép của 6 bộ, Ngự sử đài làm giường mối
cho 13 đạo, các ty Đề hình, Phủ doãn ở kinh kỳ, cùng các chức Đề hình giám sát
đều thuộc vào đài ấy. Bên ngoài thì đặt ra ba ty Trấn, Thừa, Hiến…Trấn ty thì
coi việc cầm phòng, chống giữ; Thừa ty thì đốc suất các phủ, huyện, châu; Hiến
ty thì giữ việc đàn hặc các quan lại Trấn Ty, Thừa ty, phủ huyện châu và hiệu
quan làm trái phép…”[6]. Ở
triều Minh Mệnh, bên cạnh 6 bộ Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công do Thượng thư đứng
đầu, cũng có 6 khoa tương ứng giám sát. Các khoa có quyền hạn và nhiệm vụ kiểm
soát các bộ và các cơ quan khác. Tuy nhiên, triều Minh Mệnh đặt ra một số cơ
quan và chức quan không có ở thời Lê mà giống với triều Thanh như Nội các với các chức như Nội các địa
thần. Nội các sung biện hành tẩu.Cơ mật
viện với các chức Cơ mật viện đại thần. Cơ mật viện hành tẩu, đơn vị hành
chính lớn nhất là Tỉnh có các chức
sắc Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chính sứ, Án sát sứ…tại các bộ có thêm chức Tham tri
và Chủ sự không có trong triều Lê, các chức Câu kê, Cai hợp giống thời Lê được
đổi thành chức Thư lại. Cơ quan có nhiệm vụ như Ngự sử đài thời Lê được đổi
thành Đô sát viện, có các chức Đô ngự
sử và Phó đô ngự sử phụ trách, giống như triều Thanh…
Như vậy, vua
Minh Mệnh rất có ý thức mô phỏng cách thức tổ chức hành chính của nhà Thanh.
Nếu đối chiếu chi tiết với điển chế nhà Thanh, có thể thấy nhiều điểm khác biệt
của điển chế nhà Nguyễn, phản ánh cách thức tham khảo của triều Minh Mệnh. Dưới
đây là một số ví dụ.
Theo Đại Thanh hội điển, quan chức nhà Thanh
tại các bộ được chia thành các cơ quan chuyên môn gọi là Thanh lại ty. Bộ Lại
có các Thanh lại ty; Văn khuyển, Khảo công, Nhiệm phong, Kê huân. Bộ hộ thì
chia theo địa phương thành 14 Thanh lại ty gọi theo tên của các tỉnh như Giang Nam ,
Giang Tây, Triết Giang, Hồ Quảng…Bộ lễ có các Thanh lại ty: Nghi chế, tự tế,
Chủ khách, Tinh thiện. Bộ binh chia thành 4 Lại ty: Vũ tuyển, Quân giá, Chức
phương, Vũ khố. Bộ hình chia 17 Thanh lại ty theo từng khu vực là Trực lệ,
Phụng thiên, Giang Tô, Giang tây, An Huy…Ngoài ra, một Thanh lại ty trong bộ
hình có nhiệm vụ đặc biệt “Chuyên chức đốc bổ” giữ việc đốc thúc tra xét bắt
bớ. Bộ công chia ra 4 Thanh lại ty của các bộ có các chức Lang trung, Viên
ngoại lang, chủ sự, Bút thiếp chức thừa hành phận sự[7].
Quan chức các
bộ của triều Minh Mệnh được chia ra các nhóm chuyên môn cũng được gọi là Thanh
lại ty như nhà Thanh, nhưng có sự khác biệt về tên gọi, cũng như chức năng. Bộ
lại có các Thanh lại ty: Văn tuyển, Trừng tự, Phong điển[8].
Bộ Hộ có các Thanh lại ty: Kinh trực, Nam kỳ, Bắc kỳ, Thưởng lộc, Thuế
hạng[9].
Bộ lễ có các Thanh lại ty: Nghi văn, Nhân tự, Tân hưng, Thù ứng[10].
Bộ Binh có các Thanh lại ty: Võ tuyển, Kinh tỳ, Trực tỉnh, Khảo công[11].
Bộ Hình có Thanh lại ty: Kinh trực kỳ, Nam hiến, Bắc hiến[12].
Bộ Công có các Thanh lại ty: Quy chế, Doanh thiện, Tu đạo[13].
Trong hệ thống các Thanh lại ty của triều Nguyễn không có bộ phận “Chu yên chức đốc bổ” như nhà Thanh. Trong bộ không có chức
Bút thiếp chức. Ấn ty[14]
giữ ấn triện và sắp đặt công việc của bộ, tiếp nhận và chuyển giao công văn cho
các bộ phận chức năng của bộ giải quyết công việc. Trực xứ[15]
chuyên tiếp nhận, tập hợp các phiếu thảo, phiếu nghĩ[16],
công văn từ các địa phương trình lên nhà vua, sao chép công văn, đóng ấn của
nhà vua để gủi các nơi. Với các nhiệm vụ đó, Ấn ty và Trực xứ là văn phòng của
bộ, có liên hệ với các quan văn phòng của nhà vua. Ấn ty và Trực xứ không có
trong cơ cấu các bộ của nhà Thanh. Đây là bộ phận chuyên trách do triều Nguyễn
sắp đặt. Chức Thượng thu phụ trách bộ của nhà Thanh thường có hàm tòng nhất
phẩm, luôn do hai viên quan, một người Hán, một người Mãn nắm[17],
cả triều đình có 12 vị Thượng thư. Còn trong triều nguyễn, mỗi bộ chỉ có 1
Thượng thư hàm chánh nhị phẩm.
Khi thành lập
Đô sát viện, cơ quan giám sát của triều Nguyễn, vua Minh Mệnh đã thể hiện một
quan niệm tự chủ trong việc tham khảo điển chế nhà Thanh. Lời phê chuẩn bản tấu
của đình thần bàn định nhiệm vụ cho quan chức Đô sát viện tháng 9 năm Nhâm Thìn
(1832) có đoạn: “Đặt chức ngôn quan, từ xưa đã có, trải các đời Hán, Đường,
Tống đến Minh, Thanh đời nào cũng có đặt, tên gọi không giống nhau cốt yếu làm
nhiệm vụ kiểm soát và đàn hặc.
Xét hội điển
của Bắc triều, quy chế về chức đài hiến[18]
đến đời Thanh mới đủ. Triều đại ta tự có chế độ riêng không giống với điển lễ
nhà Thanh[19].
Có thể thấy
rằng lời phê của Minh Mệnh thể hiện được tinh thần tự chủ của tư tưởng “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” trong lời thơ của Lý
Thường Kiệt ở thế kỷ XI, “miếu hiệu tuy đồng đức bất đồng” trong lời Trần Dụ
Tông ca ngợi Trần Thái Tông so với Đường Thái Tông, “nhà nước đã có phép tắc
riêng, Nam Bắc khác nhau” trong lời Trần Minh Tông, có “luật pháp, chế độ riêng
không theo quy chế của nhà Tống, là vì Nam Bắc nước nào làm chủ nước đó, không
phải bắt chước nhau” trong lời Trần Nghệ Tông ở thế kỷ XIV[20],
“núi sông bờ cõi đã riêng, phong tục Bắc Nam cũng khác…mỗi bên hùng cứ một
phương”, lời Nguyễn Trãi thế kỷ XV.
Theo Đại Thanh hội điển , Đô sát viện nhà
Thanh giữ việc giám sát ở các địa phương, còn việc giám sát ở kinh đô giao cho
Lục khoa. Khoa không trực thuộc Đô sát viện. Lục khoa có nhiệm vụ chính là kiểm
soát mọi sổ sách, tấu sớ từ các nơi đệ trình hoàng đế và có thể “phong bác’
chúng, tức là trả về sổ sách, tấu sớ nào sai quy cách hoặc có lỗi lầm. Chức Cấp
sự trung thuộc các khoa được giám sát các bộ ở kinh thành (Hình khoa cạnh Hình
bộ, Công khoa cạnh Công bộ…). Chức Giám sát ngự sử các đạo được đặt tại địa
phương. Giám sát ngự sử nắm các án kiện ở địa phương đồng thời có quyền xem xét
các vụ án ở các nha môn trong kinh thành. Đô sát viện nhà Thanh có 2 Đô ngự sử
chánh nhị phẩm đứng đầu, 2 phó Đô ngự sử chánh tam phẩm, có 4 trợ lý Thiên đô
ngự sử chánh tứ phẩm, có 4 cơ quan trực thuộc là Ty vụ sảnh chuyên tổng hợp sự
kiện, Kinh lịch ty chuyên việc sổ sách. Chiếu ma ty chuyên ghi chép và 1 nhà tù
là Tư ngục ty[21]
Tuy Minh Mệnh
lấy tên cơ quan là Đô sát viện và các chức quan chức năng đứng đầu là Đô ngự
sử, phó Đô ngự sử của nhà Thanh nhưng do tính đến những điều kiện thực tế và
yêu cầu chủ yếu là giám sát đội ngũ quan lại nên đã thay đổi vị thế trong các
chức trên. Nếu nhà Thanh đặt hai viên quan giữ cùng một chức, một người Hán,
một người Mãn, quyền hạn ngang nhau, thì nhà Nguyễn đặt thành hai chức Tả và
Hữu. Chức Tả có quyền cao hơn, lo việc kinh thành, chức Hữu lo việc địa phương.
Theo hội điển nhà Nguyễn, lục khoa trực thuộc Đô sát viện, khác với lục khoa
nhà Thanh, độc lập với Đô sát viện. Với quan hệ trực thuộc, Cấp sự trung các
khoa trở thành cấp dưới của Trưởng quan Đô sát viện, chịu sự cai quản của Đô
sát viện trong công vụ. Đây là chủ trương tăng cường tính thống nhất trong thể
thức giám sát quan lại trên toàn quốc của triều Nguyễn Minh Mệnh, tránh việc
tạo nên những cơ quan giám sát riêng biệt có quyền lực rất lớn ở kinh thành như
lục khoa của nhà Thanh. Đồng thời trong Đô sát viện nhà Nguyễn không có cơ quan
và chức quan mà Đô sát viện nhà Thanh có như Tư vụ sảnh, Kinh lịch ty, Chiếu ma
ty, Tư ngục ty, hoặc Thành sát viện đặt tại kinh đô, Tuần thành ngự sử cai quản
quan lại của kinh đô, Tuần án ngự sử tại các địa phương, Tông thất ngự sử sứ,
Kê sát nội vụ ngự sử sứ kiểm tra giám sát, kê cứu những sự vụ trong hoàng tộc.
Nhà Nguyễn cũng không đặt chức Thiên đô ngự sử.
Cũng trên
tinh thần ấy, khi thành lập Nội các vào các năm Kỷ Sửu (1829), vua Minh Mệnh có
dụ cho các quan, nêu sự đánh giá về nội các nhà Thanh “Gần đây xét ở bắc sứ,
triều nhà Minh lấy sự Tể tướng chuyên quyền làm răn mà đặt ra nội các, triều
nhà Thanh cũng rập theo. Xét về kết quả thì tuy không có cái tên Tể tướng nhưng
công việc quyền hành vẫn không khác với Tể tướng, Tóm lại là vẫn chưa đủ để làm
phép tắc đáng noi theo”[22].
Trong chỉ dụ tháng 1 năm Canh Dần (1830) của vua Minh Mệnh khi xếp đặt quan
chức nội các có đoạn: “ Nay định quan chức trật chỉ tam phẩm mà ban ở dưới sáu
bộ, không như nhà Minh nhà Thanh cho đứng đầu trăm quan”[23]
Trong một chỉ
dụ khác, Minh Mệnh khẳng định lần nữa ý thức học tập điển chế nhà Thanh một
cách chủ động, chỉ bắt chước hình thức, tên gọi của cơ quan, còn chức năng và
phạm vi quyền lực phải khác với nhà Thanh: “Điều lệ của nhà Minh, nhà Thanh bên
Trung Quốc, phàm sớ chương có bốn phương chuyên do quan Nội các Đại học sĩ
phiếu chỉ, phát ra tuân làm, dẫn đến quyền Nội các quá to, sinh ra lắm chuyện
không thể ngăn được. Ta từ nối ngôi đến nay, cân nhắc xưa nay, liệu biết tệ cũ,
đích thân qui định người sung làm công việc Nội các điện, trật chánh nhất phẩm,
Hiệp biện đại học sĩ trật tòng nhất phẩm, đã cho thi hành…những chức ấy chiếu
điển lệ nhà Minh, nhà Thanh đều là tên quan Nội các. Vậy từ nay phàm văn ban có
người nào tài giỏi, đức vọng được đặt cách thăng chức hàm Đại học sĩ vẫn lãnh
việc Thượng thư các bộ, chứ không cho sung vào Nội các, lấy đó làm phép thường
nhất định”[24]. Như
vậy, chức Đại học sĩ vốn có quyền lớn trong Nội các nhà Thanh, được đặt thành
một chức quan của triều Nguyễn nhưng không được làm việc ở Nội các nhà Nguyễn.
Một điểm khác
nữa cho thấy Minh Mệnh muốn vai trò của Nội các nhà Nguyễn kém quan trọng so
với Nội các nhà Thanh: Nội các nhà Thanh giữ độc quyền thào các tờ phê đáp cho
nhà vua, và có thể thào 2, 3 bản cho cùng một nội dung công việc[25],
còn Nội các nhà Nguyễn chỉ được thảo một bản phiếu nghĩ như một nội dung công
việc, và ngoài nội các, các bộ cũng có quyền dự thào loại tờ phê đáp này[26],
để cùng biết việc và kiểm tra lẫn nhau “tỏ rõ có sự xét thực”[27].
Khi đặt Cơ
mật viện vào tháng 12 năm Nhâm Thìn (1832), vua Minh Mệnh chỉ dụ rằng: “Gần
đây, xem Hội điển nhà Thanh, thấy có chức gọi là Quân cơ đại thần, ta cũng muốn
phỏng theo mà làm, song cái tên gọi là Quân cơ tựa hò chỉ để bàn tính mọi việc
quân sự như viện Khu mật đời Tống. Nay nên tham bác cổ kim xưa nay, tùy nghi
xếp đặt, gọi là Cơ mật viện, lấy nghĩa rằng viện ấy giữ việc bí mật về quân sự
và quốc sự. Rồi chọn lấy vài người đại thần mỗi ngày thay phiên túc trực, nếu
có việc gì cơ mật, thì người đương nhiên ở phiên túc trực ấy làm phiếu nghĩ
bàn. Trong thì Nội các ở bên tả, Cơ mật viện ở bên hữu, ngoài thì võ có Ngũ
quân Đô thống phủ, văn có đường quan Lục bộ, tả hữu có người, trong ngoài giúp
nhau”[28].
Cơ mật viện
được thành lập, là một cơ quan chỉ có dưới triều Nguyễn, mô phỏng theo quân cơ
xứ nhà Thanh, có kết hợp với tên gọi Khu mật xứ của nhà Tống. Ngay khi đó Minh
Mệnh có chỉ dụ thành lập hai cơ quan trực thuộc
Cơ mật viện là Nam chương kinh và Bắc chương kinh. Sau 5 năm (1837),
Minh Mệnh đọc sách và nhận ra rằng chương
kinh là một từ Mã, chỉ một chức quan võ trong quân đội có nhiệm vụ thư ký
cho Quân cơ xứ được gọi là Quân cơ chương kinh, không dùng để gọi tên cơ quan.
Nhà vua lập tức ra chỉ dụ đổi lại tên hai bộ phận trực thuộc Cơ mật viện thành
nam ty và Bắc ty. Việc này cho thấy một thái độ chủ động sửa chữa sai lầm: “Nay
xet điển lệ nhà Thanh nói rằng: Chương kinh Nam Bắc là chia giữ công việc giấy
tờ, chức danh người Hán, người Mãn, chẳng phải như các tào, các cục trước kia
tra cứu chưa rõ, có chỗ không hợp. Vậy chương kinh Nam
đổi làm Nam
ty, chương kinh Bắc đổi làm Bắc ty, cho chính danh nghĩa, còn các khoản chia
giữa công việc thì y như nghị chuẩn lần trước mà làm”[29]
Việc chia đặt
các tỉnh nhu74ngna8m 1831 – 1832 là phỏng theo thiết chế quan chức địa phương
của triều Nguyễn. Sách Đại Nam
thực lục ghi chép lời nghị bàn về việc chia tỉnh của đình thần triều Minh
Mệnh: “Chức quan ngoài, đời xưa có phương bá, châu mục…Đến Minh Thanh hời châm
chước ngày càng kỹ càng, đầy đủ. Tỉnh hạt đặt ra 2 ty Bố chính, Án sát chia giữ
các việc tài chính, thuế khóa và pháp luật. lại có Tổng đốc, Tuần phủ để thống
trị. Trong đó, quyền hành nặng nhẹ kiềm chế lẫn nhau, chức tước lớn nhỏ ràng
buộc la64nnhau, thực là một chính sách hay trong việc giữ nước trị dân. Nếu mô
phỏng mà làm, tưởng cũng có lợi nhiều lắm”[30].
Lời nghị bàn cho thấy triều đình đánh giá cao cơ chế “quyền hành nặng nhẹ kiềm
chế lễn nhau, chức tước lớn nhỏ ràng buộc lẫn nhau”, phù hợp với ý muốn hạn chế
mọi nguy cơ cho quyền lực của các vua Nguyễn.
Khi tham khảo
mô hình nhà Thanh về tổ chức hành chính cấp tỉnh, vua quan triều Minh Mệnh có
sự đắn đo cân nhắc, xem xét cho phù hợp với thực tế. Theo điển chế nhà Thanh,
chức Tổng đốc trật chánh nhị phẩm, cai quản việc quân dân trong một nhóm 2 hoặc
3 tình gần nhau, mỗi tỉnh có một tuần phủ giúp việc. Nhà Thanh có 9 đơn vị liên
tỉnh như vậy. Tổng đốc phải dựa vào một bộ phận tướng soái ở địa phương gọi là
Mạc phủ[31].
Các chức danh Tổng đốc, Tuần phủ được triều Nguyễn áp dụng khi chia đặt các
tỉnh vào năm 1831 – 1832. Nhưng có điểm khác trong qui định của triều Nguyễn
gắn với thực tế nước ta là có 1 tỉnh độc lập (Thanh Hóa) và 14 liên tỉnh trong
đó có một liên tỉnh gồm 3 tỉnh (Sơn – Hưng – Tuyên), và không có cơ quan tương
tự như Mạc phủ của nhà Thanh. Một điểm khác khá rõ nữa là các chức Án sát sứ,
Bố chính sứ ở mỗi tỉnh của nhà Nguyễn chỉ do 1 vị quan đảm nhiệm, trong khi ở
nhà Thanh luôn do 1 người Hán và 1 người Mãn nắm[32].
Về tôn ty
hành chính của quan chức, những qui định của nhà Nguyễn bắt chước điển chế nhà
Thanh nhưng có sự sữa chữa cho phù hợp với ý đồ của vua Nguyễn. Thí dụ, theo
chỉ dụ năm 1834 của vua Minh Mệnh, trong qui định về thể thức công văn giữa
quan chức các bộ nha từ kinh đô đến các tỉnh[33],
giữa bộ và Nội các có sự phân biệt về thứ bậc. Quan chức hàng Cửu khanh gồm
Thượng thư sáu bộ cùng 3 vị đứng đầu Đô sát viện, Đại lý tự, Thông chính sứ ty
đều gửi chiếu hội cho Nội các và nhận
lại tư trình. Chiếu hội là văn bản gửi đến quan chức cấp cao hơn và tư trình là văn bản gửi đến quan chức
cấp cao hơn. Trong điển lệ nhà Thanh, bộ gửi tư trình cho Nội các và nhận Chiếu
hội[34].
Như vậy, trong tôn ty hành chính thể hiện ở thể thức công văn quan chức Lục bộ
của nhà Nguyễn ở bậc cao hơn quan chức Nội các, còn nhà Thanh coi trọng Nội các
hơn các bộ.
Trng qui định
thể thức công văn nói trên (1834), có một điều không có trong điển chế nhà
Thanh: Trưởng quan của Tự, Giám gửi tư di
cho các quan Tổng đốc, Tuần phủ và nhận lại tư
di; Đô sát viện, Nội các không được trực tiếp trao đổi công văn với tỉnh mà
phải thông qua bộ. Với qui định này, Đại lý tự ngang hàng với cấp Tỉnh, ở bậc
cao hơn Đô sát viện và Nội các. Sự khác biệt này có ý nghĩa: Quan chức đứng đầu
Đại lý tự và Đô sát viện, hai cơ quan tối cao về tư pháp trong triều, tuy cùng
thuộc hàng “cửu khanh” và ngang hàng với Thượng thư Lục bộ, nhưng trong giao
tiếp hành chính với cấp địa phương là Tỉnh, Đại lý tự thì ngang hàng, còn Đô
sát viện ở bậc thấp hơn, và phải thông qua bộ để liên hệ với tỉnh. Điều này cho
thấy tôn ty hành chính kiểu nhà Thanh đã được vận dụng để thực hiện cơ chế kiểm
soát kiểu nhà Nguyễn.
Khi liên lạc
với quan chức sở tỉnh như Tổng đốc, Tuần phủ, Đề đốc các tỉnh, quan chức Lục bộ
phải gửi tư di và nhận lại các tư trình. Khi có công văn giữa các quan
chức ngang quyền, đều dùng tư di.
Trong khi đó, nhà Thanh không có qui định về tư di mà chỉ dùng thể thức chiếu
hội, tư trình trong quan hệ của các quan chức ngang hàng[35].
Nhà Nguyễn đã không dùng các chữ tư hội, tư hành của nhà Thanh. Hơn nữa,
trong các điển chế nhà Nguyễn, ngược lại với nhà Thanh, tư di lại ở bậc cao hơn chiếu
hội: quan chức Lục bộ, Đại lý tự gửi cho Tổng đốc, Tuần phủ thì dùng tư di, g7ui3 Bố chánh, Án sát, lãnh binh
thì dùng chiếu hội[36].
Những qui
định trên làm cho bộ máy hành chính triều Minh mệnh tuân theo một kỷ cương có
tính chất nghi lễ. Có thể nhận thấy điểm khác biệt của điển chế nhà Nguyễn so
với nhà Thanh về tôn ty hành chính giữa các bộ, Nội các và các tỉnh. Tuy vậy
mượn các từ chiếu hội, tư di, tư trình
của nhà Thanh nhưng trong qui định của mình, vua quan triều Minh Mệnh đã đặt
chúng vào những vị trí và quan hệ khác với điển chế nhà Thanh. Có thể tóm tắt
sự so sánh này như sau:
Nhà Thanh Nhà
Nguyễn
Nội
các --- chiếu hội à Nội các---tư
trình à
Bộ
Nội các ß
chiếu hội --- Bộ Nội các ß tư trình --- Bộ
Bộ --- chiếu hội à
Tỉnh Bộ ---
tư di à
Tỉnh
Đại lý tự ß
tự tư hộ à
Tỉnh Đại lý tự ß
tư di à
Tỉnh
Trong việc
khảo hạch quan lại, nhà Nguyễn học tập cách thức của nhà Thanh, sử dụng các
thuật ngữ điển lệ nhà Thanh như “Kinh sát”, “Đại kế” và thời hạn khảo hạch quan
lại là “3 năm một lần”, nhưng cũng có điểm khác biệt.
Đại Thanh hội điển qui định 3 năm một
lần có một kỳ “Kinh sát”, khảo xét tất cả quan lại ở kinh đô. Việc này được tổ
chức theo các cơ quan chủ quan của quan lại như các bộ, viện…Vào năm có kỳ Kinh
sát, quan chức đứng đầu các cơ quan ở triều đình đều làm sổ đánh giá các cuộc
thuộc viên và gửi đến bộ Lại trước ngày 15 thang 13 năm đó. Quan lại địa phương
cũng được khảo xét 3 năm một lần, gọi là “Đại kế”. Kỳ “Đại đế” được tổ chức vào
năm không có kỳ “Kinh sát”. Việc khảo xét quan lại ở địa phương phải được hoàn
tất ở tỉnh và đệ trình bộ Lại trong tháng 12 của năm trước năm tiến hành “Đại
kế”.
Trong điển
chế của nhà Nguyễn, năm tiến hành khảo xét quan chức gọi là “Kế sát”, bao gồm
“kế” là đại kế, khảo xét quan viên địa phương và “sát” là Kinh sát, khảo xét
quan viên ở kinh đô. Các kỳ “Kế sát’ cũng thực hiện ba năm một lần như điển chế
nhà Thanh. Điểm khác biệt là trong năm “Kế sát”, triều Nguyễn khảo xét toàn bộ
quan lại từ trong kinh tới ngoài tỉnh, không phân biệt hai kỳ riêng như trong
điển chế nhà Thanh. Qui định chi tiết của triều Nguyễn về thể chức này như sau:
“Phàm xét thành tích các quan cứ 3 năm làm một khóa, lấy các năm Thìn, Tuất,
Sửu, Mùi làm hạn, cứ đến những năm ấy, văn võ trưởng quan ở trong kinh thành,
quan tỉnh ở ngoài, đều chiểu sự trạng, công lao, lầm lỗi trong chức sự 3 năm,
làm một bản tự trình bày, những đốc, phủ, bố, án, có 3 việc: gọi quân, thu tiền
lương, xét hỏi hình án kiện tụng, đường quan bộ Hình chuyên giữ việc hình danh
phải làm riêng danh sách kê ra người hơn, người kém, đưa đến bộ lại tất cả, và
những quan viên thuộc quyền ở dưới, về ban võ từ tòng tam phẩm trở xuống đến
suất đội, đều do viện chưởng quản thượng ty sát hạch gửi đến bộ, văn do bộ Lại,
võ do bộ Binh kiểm tra giải quyết[37]
Mộ điểm khác
nữa ở nội dung này là trong điển chế nhà Thanh chỉ qui định các Trưởng quan nộp
sổ ghi đánh giá thuộc viên của mình, còn điển chế triều Nguyễn, các quan đều
phải viết một bản “tự trần”. Nhà Nguyễn còn qui định việc khảo xét quan lại ở
địa phương phải căn cứ vào việc gọi binh, thu lương xét án, phân ra các hạng
thượng khảo, trung khảo, hạ khảo và kém, dựa vào đó để xét thăng hay giáng
chức.
Qua một số
qui định về chức năng hành chính của quan chức và cơ quan nhà nước thời kỳ 1820
– 1841, có thể thấy rằng triều Minh Mệnh đã tham khảo điển chế nhà Thanh một
cách có chọn lọc, có tính đến sự phù hợp với thực tế nước ta và yêu cầu quản lý
của vương triều. Sự tham khảo này cho thấy mục đích áp dụng mô hình nhà Thanh là
nhằm xây dựng và vận hành bộ máy hành chính nhà nước sao cho chặc chẽ, quy củ
với kinh nghiệm của Trung hoa, để có thể tăng cường được sức mạnh độc lập với
Trung Hoa, thể hiện nét tự chủ của triều đại này.
ß
Khoa sử ĐHSP TP Hồ Chí Minh
[1] Quốc sử
quán triều Nguyễn, Đại nam thực lục chính
biên, bản dịch của Viện Sử học (xin gọi tắt là Thực lục), NXB Khoa học, Hà Nội, 1964, T. VIII, tr. 292 -301
[2] Thực lục, Sđd, T. XIII, tr. 322
[3] Thực lục, Sđd, T. XIII, tr. 318
[4] Thực lục, Sđd, T. XIII, tr. 16
[5] Thực lục, Sđd, T. X, tr. 17
[6] Phan Huy
Chú: Lịch triều hiến chương loại chí,
bản dịch của Viện Sử học, NXB Khoa học xã hội Hà Nội, 1992, T1, tr. 486
[7] Bạch Thọ
Di, Chu Viễn Liêm, Tôn
Vă n Luông, Trung
Quốc Thông sử, Thượng Hải nhân dân xuất bản xã, 1996, T. XVII, tr. 681
[8] Nội các
triều Nguyễn Khâm định Đại Nam
hội điển sự lệ, bản dịch của Viện Sử học (xin gọi tắt là Hội điển), NXB Thuận Hóa, Huế, 1993,
TII, tr. 9
[9] Hội điển, Sđd, T. 4, tr. 11
[10] Hội điển, Sđd, T. 6, tr. 13
[11] Hội điển, Sđd, T. 9, tr. 15
[12] Hội điển, Sđd, T. 11, tr. 17
[13] Hội điển, Sđd, T. 12, tr. 11
[14] Ấn ty
của bộ nào thì tên của bộ ấy được đặt trước, như Lại Ấn ty, Hộ Ấn ty…
[15] Với tên
của các bộ đặt trước, như Lại Trực xứ, Hộ trực xứ…
[16] Phiếu
nghĩ là tờ giấy ghi trên đó các quan dự thảo lời phê đáp của vua cho các tấu
sớ, sau đó đưa cua phê duyệt.
[17] Charles
O. Hucker, A dictionnary of official
tiles in imperial China , Stanford University
Press, Stanford , Cal i f ornia ,
1985, tr. 410
[18] Chức
đài hiến: chức quan chuyên can gián, giữ nghiêm phong hóa pháp độ
[19] Thực lục, Sđd, T. XI, tr. 152
[20] Đại
Việt sử ký toàn thư, T. II, bản dịch NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, tr. 138
- 151
[21] Charles
O. Hucker, Sđd, tr. 536
[22] Hội điển, Sđd, T. 14, tr. 21
[23] Hội điển, Sđd, T. 10, tr. 8
[24] Thực lục, Sđd, T. X, tr. 119
[25] A.B.
Woodside, vietnam and the Chinese model, Cambrigde ,
Mass.
Harvard University
Press, 1988, tr. 91
[26] Hội điển, Sđd, T. 14, tr. 75
[27] Hội điển, Sđd, T. 14, tr. 47
[28] Thực lục, Sđd, T. X, tr. 266
[29] Hội điển, Sđd, T. 1, tr. 206
[30] Thực lục, Sđd, T. X, tr. 352
[31] Charkes
O. Hucker. Sđd. Tr. 534
[32] Charkes
O. Hucker. Sđd. Tr. 103, 391
[33] Thực lục, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội,
1995, T. XV, tr. 356 - 360
[34] J.K.
Fairbank & S.Y.Teng. Ch’ing
administration, Cam brigde, Mass, Harvard,
University Press, 1960, tr. 77, 104
[35] J.K.
Fairbank & S.Y.Teng. Sđd, tr. 104
[36] Thực lục, Sđd, T. XV, tr. 107
[37] Hội điển, Sđd, T. 3, tr. 97
No comments:
Post a Comment