Bối cảnh lịch
sử trong nước vào nửa đấu thế kỷ XIX đã thực sự có tác động mạnh mẽ, trực tiếp
đến thái độ và chính sách tôn giáo của triều Nguyễn.
Vương triều
Nguyễn được thành lập và thống trị đất nước rộng lớn từ biên giới Việt Trung
đến tận Cà mau đã được thống nhất dưới sự quản lý của một triều đình,nh7ng về
mặt chính trị, xã hội thì không được ổn định, có sự phân rẽ. Vì vậy, các vua
đầu triều Nguyễn đã khôi phục địa vị độc tôn của nho giáo[1],[2] và
hạn chế sự phát triển của Phật giáo[3].
Triều định
không tập hợp được các tầng lớp nhân dân, các thành phần dân tộc trong cả nước
thành một khối thống nhất chung quanh mình và ngược lại, nhiều thành phần xã
hội đã liên tục nổi dậy chống lại triều đình. Trên 350 cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ
nổ ra dưới triều Nguyễn[4] là
một bằng chứng về thực trạng tình hình chính trị - xã hội nói trên. Các cuộc
nổi dậy từ chỗ lẻ tẻ ngày càng phát triển rộng lớn. Phải chăng đây cũng là một
mặt của bối cảnh lịch sử có tác động đến chính sách tôn giáo của triều Nguyễn,
đến việc đề cao Nho giáo, lấy nho giáo làm quốc giáo, làm chính đạo, nhằm sử
dụng Nho giáo như ngọn cờ tinh thần để thống trị toàn xã hội chung của một nền
tảng đạo lý, lễ nghi, tâm lý, văn hóa, nếp sống, từ đó củng cố chế độ quân chủ
trung ương tập quyền của triều Nguyễn ?
Có lẽ cũng
xuất phát từ bối cảnh lịch sử đó mà trong chính sách tôn giáo của mình nhà
Nguyễn rất chú ý tới việc khuyến khích nhân dân lưu truyền tín ngưỡng truyền
thống, như thờ cúng tổ tiên, các anh hùng, danh nhân văn hóa của dân tộc…bởi lẽ
việc làm đó vừa được lòng dân, vừa phù hợp với giáo lý của Nho giáo mà triều
Nguyễn đang đề cao để củng cố chế độ. Lịch sử Việt Nam ở thế kỷ XIX cũng cho
thấy nước ta bấy giờ vẫn còn là một nước nông nghiệp, chưa có điều kiện cần
thiết, chưa có cơ sở xã hội để loại bỏ đạo Khổng khỏi vị trí quốc đạo, chính
đạo để thay thế nó bằng một học thuyết khác mới hơn mà là tìm tòi, suy nghĩ,
khai thác những nội dung khả dĩ phục vụ có hiệu quả cho việc củng cố vương
quyền trước một hoàn cảnh lịch sử mới có nhiều biến động (như đã trình bày ở
trên).
Rõ ràng, hoàn
cảnh lịch sử đó đã ảnh hưởng, tác động đến thái độ, đến cách nhìn nhận, đến
chính sách của nhà Nguyễn đối với các tôn giáo khác. Xuất phát từ chỗ coi Nho
giáo là khuôn vàng, thước ngọc “vững vàng, anh minh như bầu trời”, những gì
trái với khuôn vàng, thước ngọc ấy đều xấu xa, sai trái, các tôn giáo khác đều
là tà đạo. Với lăng kính chủ quan đó, nhà Nguyễn đã có thái độ và tư tưởng
khinh thường phương Tây, xa lánh, miệt thị, bài xích đạo Thiên chúa…Tuy vậy, do
tác động của diễn biến lịch sử trong và ngoài nước từ cuối thế kỷ XVIII và đầu
thế kỷ XIX mà chính sách đối với đạo Thiên chúa của các vua nhà Nguyễn từ Gia
Long đến Tự Đức cũng có những điểm khác nhau.
2. Lịch sử
Việt Nam trong các thế kỷ XVII - XVIII, nhất là nửa đầu thế kỷ XIX, cho thấy
quá trình ngày càng đẩy mạnh và mở rộng việc truyền đạo Thiên chúa của các giáo
sĩ Pháp ở Việt Nam. Việc truyền đạo đó đã gắn liền với những hoạt động chuẩn bị
xâm lược Việt Nam của tư bản Pháp, nhất là từ khi Hội Thừa Sai Paris được thành
lập vào năm 1664 gắn liền với tên tuổi vị giáo sĩ Alexandre de Rhodes. Tháng
12-1624, De Rhodes đến truyền đạo ở Đàng Trong, năm 1626 ông ra Đàng Ngoài
truyền đạo sau đó lại hoạt động truyền đạo ở Đàng Trong và đến năm 1645, ông bị
trục xuất khỏi Việt Nam, De Rhodes đã mang về Pháp nhiều bản đồ Việt Nam do ông
ta vẽ, cùng với tập “Hồi ký truyền đạo” và cuốn “Lịch sử vương quốc Bắc kỳ”.
Những tài liệu nói trên đã ghi lại chi tiết, cụ thể đầy hấp dẫn đất nước ta bấy
giờ nhằm làm cho tư bản Pháp chú ý tới xứ sở này. De Rhodes cũng rất sốt sắng
đề nghị với Chính phủ Pháp thực hiện cuộc viễn chinh xâm lược Việt Nam –
“Đây là một vị trí cần phải chiếm lấy; chiếm được vị tró này thì thương nhân
châu Âu sẽ tìm được một nguồn lợi nhuận và tài nguyên dồi dào”[5].
Nhưng do cuộc
cách mạng tư sản Pháp bùng nổ (1789) đã làm trì hoãn kế hoạch xâm lược vũ trang
của thực dân Pháp trong một thời gian.
Sau cuộc đảo
chính thành công vào đầu năm 1799[6]
Napoleon Bonaparte, mặc dù có bận vì cuộc chiến tranh với các nước Anh, Áo,
Nga, nhưng vẫn không quên vấn đề Việt Nam. Năm 1801 Charpentier de Cossigny, nguyên
là viên trấn thủ Pondichéry (Ấn Độ) gửi lên Bonaparte một báo cáo nói rõ: “Nhờ
chiến thắng liên tục, nước Pháp đã mở rộng đất đai trên lục địa, nhưng lại bị
tổn thất lớn về ngoại giao trong khi nước Anh đang phát triển rất mạnh. Để nâng
cao nền Cộng hòa lên trình độ hùng cường tương xứng với diện tích và vinh quang
của nó để sau này có điều kiện chống lại kẻ thù, cần tìm nền thương mại những
ngành khai thác mới mẻ và lớn lao. Xứ Đàng Trong có đầy đủ các điều kiện đó vì
sản xuất nhiều loại hàng hóa trao đổi nhất”[7].
Cossigny đề nghị chính phủ Pháp gửi gấp sang Việt Nam tàu chiến và sứ thần “Ký kết
một hiệp ước liên minh hữu nghị và thương mại”. Nhận được báo cáo, Bonaparte đã
gửi ý kiến của Thương thư Hải quân, nhưng chưa có điều kiện khởi sự vì còn bận
chiến tranh với Anh.
Sau khi ký kết
hòa ước Amiens, chấm dứt cuộc chiến tranh với Anh – Pháp (27-3-1802) và
Bonaparte I đã giao cho triều thần xem xét lại đề nghị của Jean Maarie Dayot:
“Nếu chính phủ quyết định đặt tại Việt Nam một phái viên, tôi sẽ có tham vọng
đảm nhiệm chức vụ đó, vì tôi biết rất kỹ xứ này”[8]. Tiếp
theo đó, năm 1812 nhà vua bắt Thượng thư Hải quân báo cáo tường tận, tỷ mỉ về
phái đoàn Bá Đa Lộc năm 1788 để tìm lý do hợp pháp cho việc xâm lược vũ trang
Việt Nam. Chính phủ Pháp bí mật liên lạc với bọn tướng tá Pháp đang làm quan
cho Gia Long là Chaigneau, Vannier[9],
giao nhiệm vụ cho những người này thăm dò và báo cáo tỷ mỉ nội tình nước ta.
Ngày
17-9-1818, Thủ tướng Pháp Richelieu gửi cho Chaigneau bức thu với nội dung như
sau: “Một số chủ tàu đã hay đang đề nghị những chuyến buôn sang Bắc Kỳ và Nam
Kỳ. Ngài có thể góp phần vào các dự kiến tốt đẹp đó của chính phủ, trước hết
bằng cách tạo mọi điều kiện thuận lợi cho công cuộc kinh doanh đầu tiên của các
chủ tàu, sau đó là cung cấp cho tôi những tin tức cần thiết giúp tôi thấy rõ
cần phải làm gì để đạt tới mục đích thiết lập một quan hệ buôn bán thường xuyên
và đều đặn với những ngài hiện đang cư trú”
Chính phủ Pháp
còn liên tiếp đem các tàu chiến, hạm đội, thuyền buôn đến các cửa biển Việt Nam
để phô trương lực lượng, thúc đẩy việc thiết lập quan hệ buôn bán có lợi cho
nước Pháp, điều tra thêm tình hình nội bộ của ta. Các tàu buôn Hòa Bình (Paix)
Henry, chiến Hạm Cybèle do viên đại tá hải quân De Kergariou chỉ huy đến Việt Nam
vào năm 1817. Vừa cập bến Đà Nẵng, Kergariou đã bí mật bắt liên lạt với
Chaigneau Vannier. Khi trở về Pháp, viên đại tá này không quên vẽ tỉ mỉ bản đồ
Việt Nam đồng thời kiểm tra
lại những bản đồ Việt Nam
do Dyot đã vẽ trước đó cung cấp cho chính phủ Pháp.
Thực hiện
nhiệm vụ do Chính phủ Pháp giao, năm 1819 Chaigneau xin Gia Long về phép ở Pháp
và ông ta đã báo cáo rất tường tận, tỉ mỉ về tình hình thương mại ở Nam Kỳ,
thống kê cụ thể các thứ xuất, nhập khẩu, việc buôn bán giữa Việt Nam và các
nước quanh khu vực tình hình thuế khóa. Ông ta đề nghị: “Rất mong chính phủ
nhận rõ việc đặt quan hệ mật thiệt với Việt Nam một ngày kia sẽ mang lại cho
nước Pháp những điều lợi lớn đến chứng nào, nếu một khi chúng ta bắt buộc phải
hy sinh, thì sự hy sinh đó cũng sẽ được đền bù một cách đầy đủ”[10].
Để xúc tiến âm mưu xâm lược Việt Nam mạnh mẽ hơn, năm 1821[11],
Chính phủ Pháp cử Chaigneau làm Lãnh sự của triều đình Louis XVII với nhiệm vụ
thương lượng, thuyết phục triều đình nhà Nguyễn để cho Pháp được hưởng đặc
quyền thương mại ở nước ta và sử dụng các chuyên viên người Pháp trong các
ngành quân sự, kiến trúc, kinh tế của Việt Nam.
Việc thông qua
Chaigneau và đặt lãnh sự của Pháp ở Việt Nam bấy giớ chứng tỏ tư bản Pháp
mong muốn tạo nên một cơ sở vững chắc ở đây tạo điều kiện tăng cường thế lực
chính trị để xâm lược vũ trang thuận lợi hơn.
Liên tục những
năm của thập kỷ 30 và 40 của thế kỷ XIX, mặc dù triều đình Minh Mệnh bác bỏ mọi
đề nghị giao bang chính thức với chính phủ Pháp, nhưng tư bản Pháp không hề từ
bỏ mọi hoạt động chuẩn bị xâm lược Việt Nam của chúng. Nhiều tàu chiến Pháp lần
lượt đến bờ biển nước ta. Tháng 2 năm 1822, tàu chiến Cléopatre cập bến Đà
Nẵng, hai tàu chiến Pháp khác là Henri de Bougainville chỉ huy cũng đã đến bến
Đà Nẵng vào tháng 1 năm 1825 với nhiều lính thủy và súng đạn.
Chaigneau đã
thất bại trong việc thuyết phục Minh Mệnh ký thương ước với chính phủ Pháp, bởi
vậy, năm 1824, ông ta đã phải rời Việt nam trở về Pháp. Mặc dù vậy, chính phủ
Pháp vẫn tìm nhiều biện pháp để can thiệp vào Việt Nam . Năm 1825, chính phủ Pháp đã cử
Eugène Chaigneau sang thay làm lãnh sự, nhưng cũng không được triều đình Nguyễn
tiếp nhận phải trở về nước. Năm 1830, Eugène Chaigneau lại được cử sang Việt Nam
làm lãnh sự nhưng phải quay về vì triều đình Minh Mệnh cương quyết khước từ.
Cùng lúc ấy, ở cửa biển Đà Nẵng tàu chiến Pháp La Favorite đang uy hiếp vùng
biển làm áp lực.
Từ năm 1835,
chính phủ Pháp đã đặt Tòa lãnh sự Manila (Philippine) đến năm 1839 đổi thành
Tòa tổng lãnh sự Đông Dương phụ trách toàn bộ các vùng đất thuộc biển Trung Hoa
với nhiệm vụ chủ yếu là xâm chiếm được vùng đất này để cạnh tranh với tư bản
Anh, Hà Lan. Từ đó, Việt Nam
nói chung, Nam Bộ và Trung Bộ ngày nay nói riêng trở thành đối tượng xâm chiếm
của tư Pháp. Công cuộc chuẩn bị xâm lược vũ trang nước ta của tư bản Pháp càng
biểu hiện mạnh mẽ hơn, trắng trợn hơn trước. Điều đó được phản ánh khá rõ trong
nội dung tuyên bố của thủ tướng guygo
năm 1843: “Chúng ta có hai cái bảo đảm ở Viễn Đông: một căn cứ hải quân thường
xuyên trong vùng bể Trung Quốc và một thuộc địa vững chắc nằm kế bên Trung
Quốc. Nước Pháp không thể nào vắng mặt trong một khu vực thế giới rộng lớn như vậy,
trong lúc các nước châu Âu khác đều đã có căn cứ ở đó”. Cũng chính để đạt mục
đích đó, liên tiếp nhiều tàu chiến Pháp đã đến bờ biển Việt Nam . Từ năm 1843 đến 1847, đã ba
lần các chiến hạm Pháp vào thị uy ở của biển Đà Nẵng, phô trương thanh thế, bắt
triều đình nhà Nguyễn công nhận quyền tự do truyền đạo Thiên chúa của bọn giáo
sĩ và quyền theo đạo của dân chúng, thậm chí, chúng còn trắng trợn có những
hành động khiêu khích.
Tháng 3 năm
1843 hải phòng hạm Heroine do trung tá Favinlevêque chỉ huy đến Đà Nẵng uy hiếp
buộc triều đình phải thả các giáo sĩ bị bắt ở Huế. Tháng 6 năm 1845, tàu chiến
Alemène đến cảng Đà Nẵng buộc triều đình thả giám mục, bắt các quan lại của
triều đình được phái xuống làm con tin. Tháng 3 năm 1847, một hạm đội tự động
bao vây các thuyền bè của triều đình ở đây, cưỡng đoạt hết buồm lái, nổ súng
vào thuyền đồng và giết hại một số người Việt rồi mới rút lui.
Giữa lúc âm
mưu xâm lược Việt Nam đang được xúc tiến mãnh mẽ thì cuộc cách mạng Pháp 1848
bùng nổ, làm gián đoạn kế hoạch cướp nước ta của thực dân tư bản Pháp trong một
thời gian ngắn (1847-1851).
Từ cuối 1851,
tình hình chính trị ở Pháp ngày càng ổn định. Cuộc cách mạng công nghiệp phát
triển mạnh đòi hỏi cấp thiết thị trường, nguồn nguyên liệu. Bởi vậy, những hoạt
động chuẩn bị cho công cuộc xâm lược vũ trang Việt Nam của tư bản Pháp càng trở
nên ráo riết hơn, trắng trợn hơn, nhất là từ năm 1856, 1857.
Cuối năm 1851,
hải phòng hạm Capricieuse đến bờ biển thuộc vịnh Bắc Bộ, vào đến cửa biển miền
Nam như Cam Ranh, Phú Yên, Ô Cấp…
Tháng 12 năm
1856, Napoleon đệ tam phái Montigny sang Việt Nam với danh nghĩa thương thuyết về
việc truyền đạo Thiên chúa và buôn bán, nhưng chủ yếu là để dọn đường cho cuộc
vũ trang xâm lược sau khi Pháp chiếm được Trung Quốc. Cùng lúc đó, tàu chiến
Catinat do Lelieur de Ville Sur – Sur chỉ huy
cũng tiến đến Việt Nam
mang theo quốc thư và đề nghị được yết kiến Tự Đức. Bị triều đình khước từ, bọn
Pháp trên tàu chiến này đã trắng trắng trợn nổ súng bắn vào các pháo đài phòng
thủ của quân Nguyễn và đổ bộ lên bờ khóa các đại bác của ta, mới bỏ đi.
Cũng trong
tháng 12 năm 1856, Bộ trưởng hải quân Pháp đã thêm lực lượng cho hạm đội ở Thái
Bình Dương. Bộ trưởng ngoại giao đã chỉ thị cho bọn chỉ huy hạm đội Pháp đang
tham chiến ở Trung Quốc là sau khi đánh chiếm Quảng Châu xong phải điều động
ngay lực lượng hạm đội đến Đà Nẵng để nổ súng xâm lược.
Để thực hiện
mệnh lệnh nói trên, Phó Đô đốc hạm đội Pháp Rigault de Genouilly đã phối hợp
với đội quân Tây Ban Nha, do đại tá Palanca chỉ huy, cùng kéo thẳng đến Đà Nẵng
và sáng ngày 1 tháng 9 năm 1858, chính thức nổ súng, mở đầu cuộc xâm lược vũ
trang nước ta.
Thực dân Pháp
lấy cớ “bên vực đạo”, “truyền bá văn minh Công giáo” để nổ súng xâm lược nước
ta. Đúng, như tác giả cuốn “Vương gia An Nam” Gosselin đã viết: “Các cha đạo
thực ra chỉ là cái cớ để chúng ta ra tay hành động đối với nước Nam .
Việc mất Ấn Độ hồi thế kỷ XVII, việc nước Anh địch thủ chúng ta phát triển lực
lượng ngày càng nhanh chóng ở Viễn Đông buộc chúng ta phải cố tìm cách đặt chân
vào vùng bể Trung Hoa, nếu không thì tất cả bị suy đồi, bị sa vào một tình
trạng thấp kém đáng kính. Nước Nam
đã giúp chúng ta có cơ hội đó. Việc họ giết các giáo sĩ người Pháp đã cho chúng
ta có cớ để can thiệp và chúng ta đang nắm ngay cơ hội đó, một cách vội vàng,
dễ hiểu”[12].
Những bằng
chứng nói trên cho thấy sự câu kết chặt chẽ giữa giáo hội Thiên chúa với chủ
nghĩa tư bản Pháp trong công cuộc xâm lược Việt Nam .
Rõ ràng, các
hoạt động truyền đạo Thiên chúa của các giáo sĩ Pháp đã đe dọa nền an ninh và
độc lập, chủ quyền của Việt Nam .
Nếu đối chiếu với các hoạt động xâm lược và đe dọa nền an ninh và chủ quyền
nước ta của các giáo sĩ phương Tây thời Hậu Lê thì dưới Nguyễn ở nữa đầu thế kỷ
XIX, những hoạt động đó mạnh mẽ, trắng trợn hơn. Nhiều điều trong giáo lý của
đạo Thiên chúa đi ngược với Nho giáo, không phù hợp với tôn giáo, tín ngưỡng
truyền thống của dân tộc Việt Nam .
Nó làm lu mở lòng tin của dân chúng vào giáo lý Khổng Mạnh, làm đảo lộn trật tự
xã hội, làm phai lạt những tín ngưỡng và sinh hoạt văn hóa truyền thống của dân
tộc. Nó làm lung lay địa vị thống trị và quyền lực của triều đình trong khi nhà
Nguyễn đang nỗ lực đề cao vị trí độc tôn của Nho giáo, gắn liền nó với việc giữ
gìn, khuyến khích các tín ngưỡng truyền thống của dân tộc để ổn định chính trị,
trật tự xã hội, củng cố quyền lực của vương triều. Đây là một nguyên nhân đã
dẫn tới chính sách cấm đạo Thiên chúa của các vua triều Nguyễn ngày càng quyết
liệt hơn. Điều này cũng dễ hiểu và có cơ sở của nó.
Thái độ và
chính sách của nhà nước đối với đạo Thiên chúa lúc bấy giờ nói chung là bài
xích, cấm truyền đạo Thiên chúa. Nhưng mỗ vua đầu nhà Nguyễn có cách làm khác
nhau.
Gia Long đánh
bại vương triều Tây Sơn (Quang Toản) thành lập nên triều Nguyễn vào năm 1802
trong bối cảnh những “ân tình”, công lao giúp rập của các giáo sĩ Pháp nói
riêng, tư bản Pháp nói chung còn sâu đậm, vì vậy nhà vua đã dùng hàng chục cố
vấn người Pháp mà chủ yếu là giáo sĩ thuộc Hội truyền giáo nước ngoài của Paris
làm nhiệm vụ dịch sách, tài liệu cho triều đình, dạy học cho các hoàng tử, công
chúa…Gia Long tỏ ra có sự khoan dung đối với đạo Thiên chúa và chưa thực hiện
chính sách cấm đạo Thiên chúa truyền vào Việt Nam. Giáo sĩ Labartette vào năm
1812 đã nhận xét chính sách của Gia Long đối với đạo Thiên chúa: “Nhà vua luôn
nghĩ đến công ơn đức giám mục quá cố (Bá Đa Lộc) nên đã dành cho đoàn truyền
giáo chúng tôi toàn quyền tự do truyền đạo, không ai dám ngăn cản, chúng tôi
vẫn có cơ sở để hy vọng được tự do hành đạo…”[13].
Trước khi qua đời, Gia Long cũng đã căn dặn Minh Mệnh: :Cả ba tôn giáo đó (Nho,
Phật, Thiên chúa giáo) đều tốt như nhau và việc khủng bố tín ngưỡng bao giờ
cũng tạo cơ hội cho những cuộc biến động và gây thù oán trong dân gian, lại
thường khi làm dụp đổ ngôi vua”[14].
Thời Minh
Mệnh, Thiệu Trị đến những năm đầu thời Tự Đức, đất nước Việt Nam trong bối cảnh
các hoạt động chuẩn bị cho thực dân Pháp xâm lược Việt Nam của các giáo sĩ Pháp
ngày càng ráo riết, đe dọa nghiêm trọng đến độc lập, chủ quyền quốc gia, nên
chúng ta thấy chính sách đôói với đạo Thiên chúa của các vua Nguyễn trong giai
đoạn này đã thay đổi, chuyễn sang giai đoạn thực hiện chính sách cấm đạo Thiên
chúa ngày càng quyết liệt. Nhưng từ năm 1862 trở về sau, triều đình nhà Nguyễn
có sự thay đổi về chính sách cấm đạo Thiên chúa: từng bước đã nới lõng dần và
cuối cùng là bãi bỏ. Phải chăng nhà Nguyễn có sự thay đổi đó là do tác động
trực tiếp của bối cảnh lịch sử đương thời. Lịch sử Việt Nam ở nửa sau thế kỷ
XIX cho thấy, kể từ năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, do
nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, nhưng chủ yếu là do đường lối chống
Pháp không đúng của triều đình, nên nhà Nguyễn đã từng bước phải nhượng bộ, cắt
đất nhường cho Pháp. Năm 1862, triều đình nhà Nguyễn phải ký điều ước Nhâm Tuất
với Pháp, trong 12 điều khoản của điều ước có điều khoản: “Nước Nam
phải để cho giáo sĩ nước Pháp và nước I pha nho được tự do và giảng dạy, và để
dân gian được tự do theo đạo…”.
Đến năm 1874
(Giáp Tuất), triều đình Nguyễn lại ký điều ước thứ hai nhượng bộ, cắt đất
nhường cho thực dân Pháp (6 tỉnh Nam Kỳ) gồm 22 điều khoản, trong đó có điều
khoản IX: “Vua nước Nam phải để cho giáo sĩ được tự do đi giảng đạo và để cho
dân trong nước được tự do theo đạo”. Phải chăng vì lý do đó mà năm Tự Đức thứ
16[15],
nhà vua đã ban hành chỉ dụ: “Dân theo đạo cũng là con đỏ của triều đình, nếu
ghét bỏ quá lắm, giết sạch hết cả chi tổ gây hiềm khích, hại đến hòa khí, không
phải là cách yên dân. Các địa phương nên khéo thể theo mà làm…[16].
Đến năm Tự Đức thứ 27 lại ban hành chỉ dụ: “…Nhà nước ta lấy lễ nghie4 đãi sĩ
phu, lấy nhân hậu nuôi dân…Phàm là dân ta, không cứ lương giáo cố nhiên phải
trong nhau làm việc thiện, không theo kẻ trái phép, không phóng túng vô độ, đêu
giữ pháp của mình, thừa hu7ng3 phúc trời, mới không phụ chủ ý nuôi dạy của triề
đình”[17]
Tóm lại, bối
cảnh lịch sử trong nước và quốc tế ở thế kỷ XVIII – XIX đã có ảnh hưởng, tác
động mạnh mẽ, trực tiếp đến chính sách tôn giáo của triều Nguyễn, đến cả những
mặt tích cực cũng như mặt hạn chế của chính sách đó. Nhìn một cách khái quát,
đặt chính sách tôn giáo của nhà Nguyễn trong bối cảnh lịch sử cụ thể bấy giờ,
chúng tôi thấy chính sách đó có mặt tích cực, cần thiết đó là nhằm bảo toàn nền
văn hóa truyền thống, bản sắc dân tộc, khoan dung các tôn giáo Phật giáo, Đạo
giáo, nhằm ngăn chặn những thế lực lợi dụng tôn giáo để hoạt động chống đối Nhà
nước, xâm phạm đến an ninh, chủ quyền quốc gia Việt Nam. Những chính sách đó
cũng có mặt hạn chế như đã thực thi những biện pháp quá cứng rắn, tàn bạo đối
với người đạo Thiên chúa dưới thời các triều vua Minh Mệnh, Thiệu Trị và thập
kỷ đầu thời Tự Đức. Nhưng có lẽ hạn chế cơ bản nhất là nếu đặt nước ta dưới bối
cảnh thế giới và trong nước ở thế kỷ XIX với xu thế tư bản hóa, thực dân hóa
đang diễn ra mạnh mẽ mà các vua nhà Nguyễn lại ra sức xây dựng, củng cố chế độ
quân chủ quan liêu chuyên chế, lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng chính trị chủ đạo,
làm quốc giáo, cho đường lối trị nước, phải chăng là không còn phù hợp với xu
thế thời đại, yêu cầu của đất nước bấy giờ mà còn đưa đến hậu quả làm cho đất
nước trì trệ, nhà nước bảo thủ, làm cho dân tộc không hòa nhập được với thế
giới bên ngoài, nội bộ chia rẽ, đặt quốc gia, dân tộc Việt Nam vào tình thế bất
lợi trước cuộc xâm lược của thực dân Pháp nửa cuối thế kỷ XIX.
ß
Khoa Lịch sử, ĐHSP Hà Nội
[1] Lời nói
của Minh Mệnh và Thiệu Trị đối với quần thần . Đại Nam thực lục chính biên – NXB KHXH,
H. 1976.
[2] Lời nói
của Minh Mệnh và Thiệu Trị đối với quần thần . Đại Nam thực lục chính biên – NXB KHXH,
H. 1976
[4] Theo sự
ghi chép của Đại Nam thực lục chính biên thì thời Gia Long có 90 cuộc nổi dậy
của nhân dân chống triều đình, thời Minh Mệnh có 230 cuộc, thời Thiệu Trị có 58
cuộc, thời Tự Được có 40 cuộc.
[5] Hồng La,
Lịch sử đạo Thiên chúa giáo ở Việt Nam ,
1941, dẫn theo “Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam ”, NXB Giáo Dục, 1960, Tập III,
tr. 397.
[6] Ngày
9-1-1799, Bô-na-pac dựa vào sự giúp dỡ của giai cấp tư sản và quân đội làm cuộc
đảo chính, thiết lập nền chuyên chế quân sự của giai cấp tư sản.
[7] Ch.B.
maybon, trích từ Histoire moderne du pays d’Annam, 1919.
[8] Dayot
người Pháp đã có mặt trong đạo quân giúp Nguyễn Ánh đánh bại triều Cảnh Thịnh
vào năm 1802.
[9] Va-ni-e,
Se-nhô, Phooc-xăng (De Forsán), De-spi-ô (Despiau0 là những người Pháp trong
đạo quân do Pi-nhô-đờ-be- hen chiêu mộ năm 1790 sang Việt Nam giúp Nguyễn Anh
đánh Tây Sơn.
[11] Tháng
5/1821, Chaigneau trở lại Việt Nam
thì vua Gia Long đã chết, vua Minh Mệnh lên nối ngôi. Minh Mệnh tuy vẫn trọng
đãi người Pháp đã có công giúp Gia Long giành lại ngôi vua nhưng đã khước từ
mọi đề nghị đặt quan hện riêng giữa Việt Nam với tư bản Pháp.
[13] Theo
Lịch sử Việt Nam
từ nguồn gốc đến năm 1884, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 2000, tr. 337, 339 –
Nguyễn Phan Quang, Võ Xuân Đàn.
[14] Theo
Lịch sử Việt Nam ,
NXB Giáo dục, Hà Nội, Tập 1, tr. 444 – Trương Hữu Quýnh, Phan Đại Doãn, Nguyễn
Cảnh Minh.
[15] Tự Đức
lên ngôi vua từ năm 1847.
No comments:
Post a Comment