Khi tìm hiểu vương triều Nguyễn từ khi thành lập đến lúc thực dân Pháp
mở đầu cuộc xâm lược nước ta không thể không đặt Việt Nam trong bối cảnh lịch
sử châu Á lúc bấy giờ, đặc biệt với Trung Quốc, Nhật Bản, các nước Đông Nam Á,
vốn có mối quan hệ từ lâu với Việt Nam.
Lịch sử đã chứng tỏ rằng, vào thời cổ đại và buổi đầu của chế độ phong
kiến, nhiều nước ở châu Á đạt đến trình độ phát triển kinh tế, văn hóa khá cao,
trong khi không ít nước Âu, Mỹ còn ở trong trình độ thấp hơn. Do những điều
kiện khách quan, chủ quan và sự phát triển không đều của các quốc gia trong
lịch sử, nhiều nước phương Tây chuyển sang chủ nghĩa tư bản và đi xâm lược các
nước phương Đông làm thuộc địa. Không phải các nước tư bản thực dân mạnh hơn
thì tất yếu phải đánh thắng các quốc gia, dân tộc chậm phát triển. Chúng ta đã
biết, nhiều nước nhỏ yếu, như Việt Nam, đã làm cho các đội quân xâm lược hùng
mạnh, được trang bị “tận răng” phải “vẫy đuôi xin hang” (Nguyễn Trãi, Bình Ngô
đại cáo). Trách nhiệm làm mất nước là do
các chính quyền phong kiến nhiều quốc gia đã suy yếu, lại bạc nhược về ý chí chiến đấu, không có khả năng, cũng
như không dám huy động nhân dân đứng lên
kháng chiến chống ngoại xâm. Các nước thực dân phương Tây đã lợi dụng tình hình
suy yếu của chính quyền phnong kiến (sự chia rẽ, tranh giành trong triều, mâu
thuẫn sâu sắc giữa nhân dân và phong kiến) đã tiến hành xâm lược.
Vào buổi đầu thời cận đại, thuộc địa của các nước châu Âu ở châu Á chưa
nhiều. Bồ Đào Nha là cường quốc châu Âu đầu tiên xây dựng đế quốc thuộc địa của
mình ở phương Đông vào cuối thế kỷ XV – đầu thế kỷ XVI. Sự bành trướng của
người Bồ Đào Nha ở khu vực này cũng gặp khó khăn, vì các vương quốc ở đây còn
khá mạnh, luôn tấn công vào kẻ xâm lược, muốn nhanh chóng mở rộng quyền lực và
ảnh hưởng của họ. Hơn nữa, sự cạnh tranh của các thương nhân phương Tây cũng la
một trở ngại cho việc phát triển lực lượng của chúng. Tuy có sự thỏa thuận giữa
hai cường quốc thực dân Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, nhưng mâu thuẫn giữa Bồ Đào
Nha, Hà Lan, Anh, Pháp…ở phương Đông cũng rất gay gắt.
Từ thế kỷ XVIII, cuộc chạy đua xâm chiếm thuộc địa của các nước tư bản ở châu Á dần dần xác lập
vị trí của thực dân Anh, Pháp ở vùng này, và Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan đã
bị loại khỏi cuộc đua, chỉ chiếm giữ một số thuộc địa. Năm 1702, Anh chiếm đảo
Côn Lôn (nay là Côn Đảo) làm căn cứ, nhưng một năm sau phải rút chạy, vì không
chống nổi cuộc đấu tranh của nhân dân trên đảo, với sự giúp sức của chúa
Nguyễn. Anh hoàn thành việc xâm chiếm Ấn Độ, Mã Lai, tiến hành xâm lược Miến
Điện (nay là Myanma)…Thực dân Pháp đã thực hiện âm mưu về kế hoạch xâm lược
Việt Nam ,
Lào, Campuchia. Cuộc “đong tiến” và “tây tiến” của thực dân Anh và Pháp sẽ gặp
nhau, đọ sức đôi bên ở Xiêm La.
Do những cải cách của triều đình Xiêm La và sự dung hòa lực lượng của Anh và
Pháp, Xiêm La trở thành “nước đệm” nhưng thực tế vẫn là nước phụ thuộc của Anh.
Mỹ đến gõ cửa Nhật Bản vào giữa thế kỷ XIX (1852) và sẽ hất Tây Ban Nha khỏi
Philippin vào cuối thế kỷ này. “Trung Quốc rộng lớn, là miếng mồi béo bở của
các nước tư bản Âu Mỹ, dang bị suy yếu: nhưng dẫu sao con số 11.136.000km vuông
của nó cũng vẫn là miếng mồi quá to mà cái mõm của chủ nghĩa đế quốc thực dân
không thể nuốt trôi ngay một cái được.Và không thể trong một ngày mà đẩy một
cách tàn bạo 489.500.000 người Trung Quốc vào xiềng xích của chế độ nô lệ thuộc
địa. Cho nên người ta cắt vụn Trung Quốc ra: cách này chậm hơn nhưng khôn hơn”[1].
Các nước thực dân Âu, Mỹ, đi đầu là Anh, từ 1635 trở đi đã lần lượt
“liên quân” với nhau xâu xé Trung Quốc. Năm 1857 – 1858 liên quân Pháp – Anh
đánh phá Quảng Châu và buộc triều đình Mãn Thanh phải ký điều ước Thiên Tân (27
– 6 – 1858). Việc đánh chiếm Trung Quốc không chỉ để chia nhau “chiếc bánh ngọt
khổng lồ Trung Quốc” mà còn để hạ uy thế của “Thiên Triều” Bắc Kinh với các chư
hầu ở châu Á và các nước tư bản phương Tây sẽ thay vào vị trí thống trị này.
Trước tình hình như vậy, ở các nước châu Á nổi lên một số vấn đề có
liên quan đến Việt Nam .
Thứ nhất, nhìn chung chính
quyền phong kiến ở hầu hết các nước châu Á đều không có thiệ chí, khả năng tập hợp nhân dân để chống xâm lược, dù
trong hang ngũ của giai cấp thống trị đã xuất hiện không ít những người yêu
nước quyết tâm bảo vệ Tổ Quốc, như Đipônêgôra ở Inđônêxia, Pucom Pao của
Campuchia, Maha Banđula ở Miến Điện, nhà vua tre Xirat Ut Đôilê ở Ấn Độ, Hàm
Nghi và các sĩ phu yêu nước Việt Nam…Hầu hết các nước bị xâm lược, lúc đầu
triều đình phong kiến cũng tổ chức kháng chiến, nhưng dần dần chuyển sang
nhượng bộ, đầu hang làm tay sai.
Thứ hai, trong thời kỳ chế độ
phong kiến suy yếu, ách thống trị càng đè nặng lên các tầng lớp nhân dân, mâu
thuận giữa triều đình và nhân dân lao động, đặc biệt là nông dân càng trở nên
gay gắt. Có thể xem thế kỷ XVII – XVIII ở nhiều nước châu Á là các thế kỷ của những cuộc khởi nghĩa nông dân lớn.
Ở Việt Nam phong trào nông dân đã bùng lên mạnh mẽ ở Đàng Trong và Đàng
Ngoài mà đỉnh cao là khởi nghĩa Tây Sơn và trở thành cuộc chiến tranh nông dân
đánh bại các tập đoàn phong kiến trong nước và quân phong kiến xâm lược Xiêm
La, Mãn Thanh, đặt cơ sở cho sự thống nhất đất nước.
Ở Trung Quốc, phong trào nông dân Thái Bình Thiên Quốc nổ ra ở Quảng Tây
rồi lan rộng khắp 18 tỉnh, kéo dài trong 14 năm đánh bại quân triều đình Mãn
Thanh ở nhiều nơi, xây dựng chính quyền mới, ban hành “Chế độ ruộng đất của Thiên Triều” – một cương lĩnh về ruộng đất,
làm cho mọi người” “Có ruộng cùng cày, có cơm cùng ăn, có áo cùng mặt, có tiền
cùng tiêu, không nơi nào là không đồng đều, không ai là không no ấm”.
Ở Nhật Ban, phong trào đấu tranh của nông dân cũng rất sôi nổi: “Theo
thống kê, thế kỷ XVII có 188 cuộc khởi nghĩa, thế kỷ XVIII có tới 514 cuộc và
trong 67 năm thế kỷ XIX có tới 538 cuôc.
Các cuộc khởi nghĩa lan dần đến ven hoặc vào thành phố như Ê đô, Nagasaki , Takayama và cả
hầm mỏ Ykumô”[2]. Đặc
biệt phong trào nông dân Nhật Bản trong những thập niên 30 – 40 của thế kỷ XIX
đã có mục tiêu đấu tranh rõ rệt, nhằm đòi giảm thuế, giảm tô, chống ách áp bức
của bọn thống trị các cấp, sự đầu tư tích lũy của bọn cho vay nạn lãi.
Ở Miến Điện, vào đầu thế kỷ XIX, một cuộc khởi nghĩa lớn của nông dân,
nổ ra vào năm 1810, nhằm chống ách áp bức phong kiến và sự chuyên quyền của các
quan lại. ngoài ra còn có nhiều cuộc đấu tranh của nông dân các dân tộc ít
người, như của người Môn, kéo dài suốt từ nửa sau thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ
XIX.
Nhìn chung, trong các thế kỷ XVII, XVIII và nủa đầu thế kỷ XIX, phong
trào đấu tranh của nông dân bùng nổ sâu rộng ở hầu hết các nước châu Á – một
biểu hiện về sự suy yếu của chế độ phong kiến. Tuy các cuộc khởi nghĩa nông dân
lần lượt bị thất bại, song cũng làm cho chế độ phong kiến càng them lung lay.
Tuy vậy, trước nạn ngoại xâm của tư bản,
thực dân phương Tây, nông dân ở hầu hết các nước châu Á đã tạm gác quyền lợi
của giai cấp mình, đặt quyền lợi dân tộc lên trên. Họ đã cùng triều đình chống
quân xâm lược, song khi chính quyền phong kiến nhượng bộ, đầu hang, thì nông
dân chống lại lệnh “bãi binh” của triều đình, rồi chống cả thực dân xâm lược và
giai cấp phong kiến đầu hang.
Hiện tượng trên cũng diễn ra ở Việt Nam , khi mà phong trào chống Pháp
của nhân dân đã đi đến nhận thức rằng: chống Pháp phải đi đôi với việc chống
triều đình đầu hang:
“Dập dìu trống đánh cờ xiêu,
Phen này quyết đánh cả Triều cả Tây”
Trong phong trào KATIPUNAN (“Liên hiệp những người con yêu quý của nhân
dân”) ở Philippin vào cuối thế kỷ XIX, đã dần dần kết hợp phong trào yêu nước
với phong trào nông dân, nhằm thực hiện các mục tiêu dân tộc, xã hội và giai
cấp:
“Mọi người được bình đẳng, không phân biệt màu da, giàu nghèo và địa vị
xã hội.
-
Chống áp bức xã hội, bảo vệ những người bị áp bức.
-
Giành độc lập tự do cho Tổ quốc.”
Ở Miến Điện trong cuộc kháng chiến ba lần chống xâm lược của thực dân
Anh, nhân dân đã cùng quân triều đình ngăn chặn âm mưu và kế hoạch đánh nhanh
thắng nhanh của kẻ thù, làm cho chúng phải mất 60 năm (1824 – 1885) mới chinh
phục được Ấn Độ.
Phong trào nông dân Thái Bình Thiên Quốc, đã dần dần nhận thấy rằng,
phải đánh thắng cả triều đình Mãn Thanh lẫn bọn thực dân phương Tây đã cấu kết
chặt chẽ với nhau. Mục tiêu giai cấp và dân tộc từng bước được kết hợp với nhau
trong phong trào nông dân Thái Bình Thiên Quốc, để đến phong trào Nghĩa Hòa
Đoàn (đầu thế kỷ XX) thì cuộc đấu tranh chống đế quốc trở nên mạnh mẽ và khi
triều đình Mãn Thanh đã bỏ rơi phong trào, hòa hoãn với đế quốc xâm lược, thì
từ đấu tranh nổi dậy rộng lớn của nông dân chống cùng triều đình chống đế quốc,
trở thành cuộc đấu tranh dân tộc chống cả phong kiến, thực dân để bảo vệ nền
độc lập của đất nước.
Cuộc khởi nghĩa đã bị đế quốc và phong kiến Mãn Thanh cấu kết dìm trong
bể máu.
Nhìn chung phong trào nông dân ở châu Á vào các thế kỷ XVIII, XIX đã nổ
ra liên tiếp, kéo dài, lan rộng nhiều nơi và dân dần kết hợp với mục tiêu chống
xâm lược, giải phóng dân tộc. Phong trào đã lần lượt thất bại, vì thiếu đường
lối đúng, chua xác định được con đường cứu nước mới, chưa thoát khỏi con đường
cứu nước kiểu phong kiến đã lỗi thời. Người dân không thể tự mình giải phóng
cho mình mà sẽ đi vào con đường phong kiến hóa. Lịch sử không bao giờ đặt ra
cho mình vấn đề không được giải quyết, như Các Mác đã khẳng định. Sự phát triển
hợp quy luật xã hội đã xuất hiện giai cấp công nhân đảm nhận sứ mệnh giải phóng
nhân dân, trong đó có nông dân và bản than mình, giành được độc lập, xây dựng
xã hội văn minh, tiến bộ.
Thứ ba, sức sống của xã hội
của các nước châu Á dưới chế độ phong kiến đang suy yếu được thể hiện ở những
xu thế canh tân đất nước với nhiều mức độ, hình thức khác nhau. Mầm mống tư bản
chủ nghĩa đã xuất hiện và phát triển. Giai cấp phong kiến trong nước đã tìm mọi
cách để bóp chết các mầm móng này. Bọn thực dân, tư bản phương Tây khi tiến
hành các cuộc xâm lược và đô hộ ở phương Đông cũng thực hiện âm mưu tiêu diệt
mọi sức sống mới, tiên tiến trong xã hội các nước thuộc địa. Vì vậy, những xu
hướng canh tân đất nước ở các nước châu Á vào nửa đầu thế kỷ XIX đã tồn tại và
phát triển rất khó khăn. Bởi vì, các xu hướng duy tân và việc tực hiện thành
công các cuộc duy tân đất nước gắn liền với sự hạn chế (chưa phải lật đổ) chế
độ phong kiến suy yếu, lỗi thờ và việc đánh thắng sự xâm lược đô hộ của các tư
bản. Giai cấp phong kiến trong nước với tư tưởng bảo thủ, không dễ chấp nhận sự
thay đổi phương hại đến quyền lợi của giai cấp mình. Bọn thực dân, tư bản ra
sức kìm hãm các nước nhỏ yếu dễ thống trị, không cạnh tranh với nhau.
Tuy vậy, xu hướng canh tân đất nước vẫn là xu hướng chung của nhiều
nước ở phương Đông. Thế kỷ XIX cũng là thế kỷ của xu hướng duy tân theo con
đường tư bản chủ nghĩa. Xu thế duy tân có thể trở thành hiện thực hay không còn
tùy thuộc vào cơ sở xã hội, thái độ của triều đình phong kiến mỗi nước. Điều
này chúng tôi sẽ không trình bày ở đây, nhưng nhấn mạnh rằng những điều kiện
chủ quan và khách quan để thực hiện một cuộc canh tân đất nước đã khá chin muồi
ở nhiều nước. Sự phản ứng, chống đối của phe đối lập, sự sáng suốt của một số
người cầm đầu, lực lượng của phái duy tân ở mỗi nước sẽ là yếu tố thành công
hay thất bại của công cuộc canh tân đất nước. Chính điều này sẽ là một cơ sở để
các nhà nghiên cứu có thái độ đúng, khách quan khoa học đối với trách nhiệm làm
mất nước của giai cấp phong kiến ở nhiều
nước châu Á.
Ø
Ø Ø
Đặt Việt Nam vào bối cảnh chung lịch sử thế kỷ XIX, trước khi thực dân
phương Tây mở rộng và hoàn thành sự xâm lược, đô hộ các nước châu Á là cần
thiết để hiệu rõ nguyên nhân mất nước và trách nhiệm của triều đình Huế trong
việc để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp. Một thái độ khách quan, khoa học,
dựa trên cơ sở tài liệu lịch sử chính xác sẽ đưa đến những nhận định đúng đắn,
không áp đặt, công bằng và công minh lịch sử.