GS. LƯƠNG NINH¯
Có một số công trình nghiên
cứu đặt vấn đề xem xét, đánh giá công tội, tốt xấu đối với vương triều cuối
cùng của lịch sử VIệt Nam
theo cách gộp chung như tên gọi vương triều và cho cả vương triều.
Dường
như người ta chưa bao giờ bằng lòng và chưa tự bằng lòng khi phải bình xét như
thế đối với triều Nguyễn.
Tôi
không nghĩ rằng sẽ không bao giờ có thể bằng lòng hay tự bằng lòng khi phải xem
xét gộp như thế.
Một
vương triều và là vương triều phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam gồm
13 vua kéo dài 143 năm, không phải là nhiều nhưng cũng không phải là ít, nên rõ
ràng nó không phải thuần nhất từ đầu chí cuối. Theo tôi có thể chia ra làm 5
giai đoạn khác nhau.
1. Thời Gia Long (1802 – 1819) với hai
mặt tốt xấu, công tội tương phản nhau rất rõ rệt đến nỗi rất khó mà nói mặt nào
nhiều, nặng hơn.
Là người cuối cùng còn xót
lại của một dòng họ đã trải qua 10 đời từ 1533 đến 1778 đã từng xưng vương, bị
truy đuổi, chạy long đong, nhưng nhìn thấy đối phương là nhà Tây Sơn có sự chia
rẽ nội bộ và sự yếu kém của người em út trấn trị miền Nam, Nguyễn Ánh đã nuôi
chí giành lại quyền.
Ông
đã không phân vân trước bất cứ một thủ đoạn nào, biện pháp nào, kể cả cầu viện
ngoại bang, hết Xiêm đến Pháp, bằng bất kỳ biện pháp nào, kể cả đem quân về
lãnh thổ nước nhà để đánh giúp, cả gửi người con làm con tin, cầu viện, bỏ qua
lời can của bà quý Phi Yến ,đã đẩy hại bà chết trên Côn Đảo.
Không
thể biện hộ rằng đã chống nhau thì có thể dùng bất cứ thủ đoạn nào để chiến
thắng. Cái tư cách như thế, đứng trên tâm thế của người Việt Nam , không ai có thể tán đồng, dù
chỉ là một điểm nào. Cuối cùng, Nguyễn Ánh đã giành thắng lợi, lên ngôi vua,
lấy hiệu Gia Long, không phải bởi sự chi viện của quân Xiêm, không phải bởi sự
giúp đỡ, can thiệp của người Pháp, mà bởi triều Tây Sơn không tự đứng vững sau
khi vua Quang Trung qua đời đột ngột. Gia Long lên ngôi, bước đầu tổ chức bộ
máy cai quản thống nhất toàn bộ lãnh thổ đã có tiền đề từ các thời trước, triều
đại trước, đã tìm cách bảo vệ nền tự chủ và quyền của vương triều, tránh khỏi
sự ảnh hưởng và sự chi phối của ngoại bang do quá khứ để lại. Xác định sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền
quốc gia là cố gắng và hoạt động đầu tiên đáng ghi nhận của Gia Long. Tuy
nhiên, cũng không thể không nói đến việc sau khi đã giành được thắng lợi, Gia
Log đã trả thù đối thủ cũ của mình, những người của triều Tây Sơn, một cách vô
cùng nhỏ nhen và tàn bạo khiến cho hậu thế kho6g thể chấp nhận tư cách của một
vị vua sáng lập vương triều.
2. Giai đoạn 2 gồm 3 vua: Minh Mệnh,
Thiệu Trị, Tự Đức từ năm 1820 đến 1883
Có
thể gọi chung đây là giai đoạn thử thách
và cố gắng củng cố vương triều. Tuy nhiên ba đời vua này cũng có sự phát triển
và tính chất khác nahu:
Minh
Mệnh (1820-1840) thể hiện rõ tính chất chung của giai đoạn, là ông vua được học
hành, giáo dục cẩn thận, khởi xướng sự phát triển của văn hóa, văn học, sử học,
chú ý giữ gìn đạo đức, ý thức trách nhiệm của người cầm quyền; khởi xướng việc
cải tổ bộ máy hành chính và cai quản lãnh thổ qua nghiên cứu cẩn thận, kế thừa
hợp lý nên vẫn còn giữ được giá trị tham khảo cho công việc điều hành lãnh thổ
đến ngày nay, sau gần 200 năm. Có thể nói ông làm được nhiều việc đáng khen trên
trách nhiệm của một nhà nho học, nhà văn hóa, nhà quản lý.
Nhưng
thời của ông gặp ba thử thách đối ngoại hết sức nặng nề, đó là vụ đụng độ với
Xiêm vế vấn đề Lan xang (Lào), lại đụng độ với Xiêm, ác liệt hơn về vấn đề
Campuchia, vụ đụng độ với người châu Âu và việc truyền bá đạo Kitô cùng với một
chuỗi thử thách về tình trạng kinh tế và xã hội trong nước. Cả 4 vụ dường như
vượt quá tầm tay của ông, và vì thế ông đều mắc sai lầm nghiêm trọng, để lại hệ
quả nặng nề cho đất nước và cho các vua sau.
a)
Vụ Chậu Anụ,người anh hùng dân tộc
Lào cầu cứu (1828) do bị Xiêm đánh, triều đình bàn luận rất hăng nhưng thái độ
của Minh Mệnh là tránh né, buông xuôi nên Anụ bị bắt, bị chết, nước Lào bị Xiêm
biế thành một tỉnh (1831). Thái độ gần như thờ ơ, bỏ mặc này thật đáng tiếc,
đáng trách.
b)
Vụ Ang Mây ở Campuchia xảy ra sau 6
năm là một thử thách quyết liệt hơn nữa. Sự tranh chấp giữa triều đình Xiên và
Nguyễn về vấn đề Campuchia diễn ra từ lâu, từ 1767 đến khi vua Ang Chan lên
ngôi ở Cmpuchia năm 1806 rồi ốm chết năm 1834, triều đình Nguyễn ủng hộ cho con
gái Ang Chan là Ang Mây lên ngôi, lại đặt Trấn
Tây thành để ủng hộ cho nữ vương mới. Cuộc chiến tranh thực sự đã nổ ra;
ủng hộ và giúp đỡ Ang Mây là cần và đúng nhưng rồi lại đặt chế độ “bảo hộ” cùng
với quân đồn trú là sai, nên hệ quả là phải tham chiến với Xiêm thật là tai
hại. Cả hai bên Xiêm-Việt dường như đã vét đến người cuối cùng và đồng tiền
cuối cùng để lao vào cuộc chiến. Vua Minh Mệnh quyết không chịu lui quân, mặc
dù đã có sự can gián khẩn thiết của các trọng thần như Nguyễn Công Trứ, Phan
Thanh Giản, Lê Minh Đức. Chỉ đến khi cả hai bên không ai thắng ai thì mới chấp
nhận “hòa” (năm 1847) tức là năm cuối cùng đời vua Thiệu Trị. Đây là một chính
sách vô cùng hao tài tốn của, không hiệu quả vắt kiệt sức dân sức nước.
c)
Vụ cấm đạo được thực hiện một cách
kiên quyết trong suốt 3 đời vua; trước sau có tới 16 đạo dụ và nhiều điều lệ
cấm truyền bá đạo Kitô, thậm chí bắt bỏ, đàn áp, hành hình. Đánh giá việc này
rất phức tạp “Đúng hay sai, nên hay không nên?”, “Có lúc, có trường hợp nó gắn
với ngoại bang hay không gắn?” Ở đây, theo tôi có hai mặt của vấn đề văn hóa, không phải vấn đề ngoại bang.
Kitô
giáo, cũng như Islam là tôn giáo nhất thần, tôn sung và chủ trương phục tùng
tuyệt đối vị thần tối cao duy nhất, chỉ có một cây thập tự nhỏ, treo thờ tượng
trưng, không có và không chấp nhận thờ tượng, bàn thờ, bát hương, linh thú,
linh điểu, rượu thịt, ăn uống sau thờ cúng. Ngược lại những người theo nho học
là một hệ tư tưởng hơn là một tôn
giáo, mang tính duy lý, ít nhiều phủ nhận điều huyễn hoặc phi lý, lại đã trải
qua hang nghìn năm “theo đạo” thờ cúng tổ
tiên, mà tổ tiên là ông bà, là người thì phải cúng, có ăn uống như người
thực sự đang sống. Ở đây nhiều cách lý giải việc này nhưng theo tôi, chê bên
này một ít, trách bên kia một điều không đúng. Ngày nay, đã trải qua hơn trăm
năm nhưng người Việt theo Kitô giáo sống trong long dân tộc đã có sự dung hòa
hợp lý: kết hợp kính Chúa và yêu nước; nhiều người vừa đi lễ nhà thờ cúng tổ
tiên, ở nhà có bàn thờ, bát hương. Đó là quyền tự do của mỗi người. Một thực tế
lịch sử đã xảy ra làm xáo động xã hội và không thể không làm lao đao triều đình
nhà Nguyễn.
d) Nhưng làm lao đao hơn nhiều chính là sự
việc xảy ra ở bên trong. Nhiều năm mất mùa, nhà nước lại đánh thuế cao để bù
chi phí chiến tranh, dân đói to, bất bình nỗi dậy chống lại từ địa phương đến
triều đình Trung ương. Trong khoảng 50 năm với khoảng 300 cuộc khởi nghĩa nông
dân, trong đó có 8 cuộc có tên tuổi, kéo khá dài. Triều đình có thể có một biện
pháp đàn áp, tức là lại tiến hành những cuộc chiến tranh lớn nhỏ nhưng lại để
chống lại chính nhân dân của mình.
Cho
nên, có thể nói đến Thiệu Trị còn cố
cưỡng lại trước những thử thách, thì đến Tự
Đức (1848 – 1883) hầu như chịu bó tay, buông xuôi. Ông vua này lại ở ngôi quá
lâu, 35 năm mà 20 năm cuối (1862 – 1883) diễn ra cảnh thực dân Pháp xâm chiếm
ba tỉnh miền Đông Nam Bộ đến cả nước.
Có
tác giả nêu lên vấn đề tại sao một dân tộc từng đánh bại nhanh chóng hang chục
vạn quân Nguyên, hang chục vạn quân Thanh lại tỏ ra hoàn toàn thụ động trước
mấy nghìn quâ Pháp, có nơi chỉ mấy chục? Lý do đói kém không đủ giải thích, lý
do ưu thế vũ khí thực tế cho thấy có thể khắc phục được bằng phục kích, đột
kích và số đông. Bằng cứ là sau đó là nhân dân tự động tổ chức kháng chiến, tập
kích từng trận có hiệu quả nhưng không giành được thắng lợi vì thiếu một tổ
chức chung. Lý do chủ yếu có lẻ là sự
khủng hoảng niềm tin, sự mất phương hướng hoàn toàn, đã có thể đẩy một dân
tộc anh hung phải chán chường thụ động, quay lưng lại thực tế đau long “rằng
quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu” (Tam nguyên Nguyễn Khuyến). Trước nũa cả khi
quân Pháp tấn công, đã có tâm trạng “Trải qua một cuộc bể dâu, những điều trông
thấy mà đau đớn long” (Nguyễn Du). Chẳng còn điều gì để nói về Tự Đức nữa.
3. Giai đoạn 3 có 5 vua trong 5 năm (1883 –
1888).
Là sự thay đổi ngôi đến chóng mặt, hoàn toàn theo sự
dàn cảnh của thực dân Pháp. Tuy vua Hàm Nghi nằm trong số 5 vua nhưng không thể
xếp cùng trong hệ thống này.
4. Vua Hàm Nghi mở đầu cho giai đoạn 4.
Không
thể thừa nhận chế độ bù nhìn cùng với chiếu Cần Vương là sự phản ứng khí phách
bất khuất của một dân tộc anh hung chống lại chế độ cai trị đã được thiết lập,
nhưng ở thế yếu ớt, bị động, lẻ tẻ.
Tiếp
theo là hai vua Thành Thái (1889 –
19907) và vua Duy Tân (1907 – 1916).
Hai ông vua này được giáo dục thấm đượm tinh thần văn hóa truyền thống, nên mặc
dù trong hoàn cảnh đã bị chính quyền thực dân hoàn toàn khống chế và o ép, vẫn
kiên cường tỏ thái độ chống lại: phản kháng kiên quyết nên thà bị bắt, bị đi
đày đảo xa còn hơn giữ ngai vàng bù nhìn, chịu khổ ải thân mình còn hơn chấp
nhận phận nô lệ của nhân dân. Hành động của ba vua này đáng là niềm tự hào vĩ
đại cho cả vương triều có không ít sai lầm và khuyết điểm này, là niềm an ủi rất lớn cho truyền thống bất khuất của dân ta,
là ngọn đèn còn được thắp sang trong đêm đen.
5. Giai đoạn cuối cùng gồm 2 vua Khải Định và Bảo Đại kéo dài khá
lâu (1916 – 1945) nhưng hoàn toàn do thực dân Pháp tạo dựng theo kiểu mẫu của
Pháp, theo yêu cầu của thực dân Pháp. Thiết nghĩ cũng không cần để công chê
trách làm gì, nó như thế không thể khác. Làm vua, có quần thần nghi vệ nhưng
không thể trị vì, làm vua thật, thì chẳng nhẽ suốt ngày ngồi nghĩ ngợi mà nghĩ
cái gì, thì tốt hết là đi săn bắn, đánh bài, tiệc tùng nhảy đầm, lâu thành thói
quen, thành nếp kh6ng bỏ được. Vua thích thú mà người Pháp cũng hài long.
Cách
mạng nhân dân nổ ra, nghe nói Bảo Đại khá tự nguyện thoái vị, thực sự bằng long
làm dân nước tự do và khá thích thú làm cố vấn chính phủ nhưng ông không thể
làm và quen làm việc thực. Điều ông quen và thích là các thú ăn chơi. Hồ chủ
tịch hiểu điều này hơn ai hết, nên nếu giữ không được thì nên để cho ông đi.
Nay thì chúng ta hãy để cho ông được “Tây phương cực lạc”.
Vương
triều phong kiến cuối cùng hình thành trong điều kiện lịch sử đất nước, lịch sử
vùng và lịch sử thế giới như con thuyền đi trên biển, trong going bão, tuy đầy
tham vọng nhưng thuyền nhỏ mà tay lái kém; không biết bơi nên nó đã chìm. Nhưng
nhân dân không chìm cùng với nó. Nhân dân đã tập bơi, tự bơi và đã đến bờ.
Nhìn
chung con thuyền cũ của mình, thương nó, nó cũ quá và đã chìm mất rồi. Con thuyền cũ của mình – đó là vấn đề
tôi đặt đặt ra để suy nghĩ và lạm bàn.
No comments:
Post a Comment