Tuesday, March 29, 2016

VỀ TRIỀU NGUYỄN TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM MỘT SỐ VẤN ĐỀ BÀN THÊM

GS. LƯƠNG NINH¯

            Có một số công trình nghiên cứu đặt vấn đề xem xét, đánh giá công tội, tốt xấu đối với vương triều cuối cùng của lịch sử VIệt Nam theo cách gộp chung như tên gọi vương triều và cho cả vương triều.
            Dường như người ta chưa bao giờ bằng lòng và chưa tự bằng lòng khi phải bình xét như thế đối với triều Nguyễn.
            Tôi không nghĩ rằng sẽ không bao giờ có thể bằng lòng hay tự bằng lòng khi phải xem xét gộp như thế.
            Một vương triều và là vương triều phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam gồm 13 vua kéo dài 143 năm, không phải là nhiều nhưng cũng không phải là ít, nên rõ ràng nó không phải thuần nhất từ đầu chí cuối. Theo tôi có thể chia ra làm 5 giai đoạn khác nhau.

1. Thời Gia Long (1802 – 1819) với hai mặt tốt xấu, công tội tương phản nhau rất rõ rệt đến nỗi rất khó mà nói mặt nào nhiều, nặng hơn.

            Là người cuối cùng còn xót lại của một dòng họ đã trải qua 10 đời từ 1533 đến 1778 đã từng xưng vương, bị truy đuổi, chạy long đong, nhưng nhìn thấy đối phương là nhà Tây Sơn có sự chia rẽ nội bộ và sự yếu kém của người em út trấn trị miền Nam, Nguyễn Ánh đã nuôi chí giành lại quyền.
            Ông đã không phân vân trước bất cứ một thủ đoạn nào, biện pháp nào, kể cả cầu viện ngoại bang, hết Xiêm đến Pháp, bằng bất kỳ biện pháp nào, kể cả đem quân về lãnh thổ nước nhà để đánh giúp, cả gửi người con làm con tin, cầu viện, bỏ qua lời can của bà quý Phi Yến ,đã đẩy hại bà chết trên Côn Đảo.
            Không thể biện hộ rằng đã chống nhau thì có thể dùng bất cứ thủ đoạn nào để chiến thắng. Cái tư cách như thế, đứng trên tâm thế của người Việt Nam, không ai có thể tán đồng, dù chỉ là một điểm nào. Cuối cùng, Nguyễn Ánh đã giành thắng lợi, lên ngôi vua, lấy hiệu Gia Long, không phải bởi sự chi viện của quân Xiêm, không phải bởi sự giúp đỡ, can thiệp của người Pháp, mà bởi triều Tây Sơn không tự đứng vững sau khi vua Quang Trung qua đời đột ngột. Gia Long lên ngôi, bước đầu tổ chức bộ máy cai quản thống nhất toàn bộ lãnh thổ đã có tiền đề từ các thời trước, triều đại trước, đã tìm cách bảo vệ nền tự chủ và quyền của vương triều, tránh khỏi sự ảnh hưởng và sự chi phối của ngoại bang do quá khứ để lại. Xác định sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền quốc gia là cố gắng và hoạt động đầu tiên đáng ghi nhận của Gia Long. Tuy nhiên, cũng không thể không nói đến việc sau khi đã giành được thắng lợi, Gia Log đã trả thù đối thủ cũ của mình, những người của triều Tây Sơn, một cách vô cùng nhỏ nhen và tàn bạo khiến cho hậu thế kho6g thể chấp nhận tư cách của một vị vua sáng lập vương triều.

2. Giai đoạn 2 gồm 3 vua: Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức từ năm 1820 đến 1883

            Có thể gọi chung đây là giai đoạn thử thách và cố gắng củng cố vương triều. Tuy nhiên ba đời vua này cũng có sự phát triển và tính chất khác nahu:
            Minh Mệnh (1820-1840) thể hiện rõ tính chất chung của giai đoạn, là ông vua được học hành, giáo dục cẩn thận, khởi xướng sự phát triển của văn hóa, văn học, sử học, chú ý giữ gìn đạo đức, ý thức trách nhiệm của người cầm quyền; khởi xướng việc cải tổ bộ máy hành chính và cai quản lãnh thổ qua nghiên cứu cẩn thận, kế thừa hợp lý nên vẫn còn giữ được giá trị tham khảo cho công việc điều hành lãnh thổ đến ngày nay, sau gần 200 năm. Có thể nói ông làm được nhiều việc đáng khen trên trách nhiệm của một nhà nho học, nhà văn hóa, nhà quản lý.
            Nhưng thời của ông gặp ba thử thách đối ngoại hết sức nặng nề, đó là vụ đụng độ với Xiêm vế vấn đề Lan xang (Lào), lại đụng độ với Xiêm, ác liệt hơn về vấn đề Campuchia, vụ đụng độ với người châu Âu và việc truyền bá đạo Kitô cùng với một chuỗi thử thách về tình trạng kinh tế và xã hội trong nước. Cả 4 vụ dường như vượt quá tầm tay của ông, và vì thế ông đều mắc sai lầm nghiêm trọng, để lại hệ quả nặng nề cho đất nước và cho các vua sau.
            a) Vụ Chậu Anụ,người anh hùng dân tộc Lào cầu cứu (1828) do bị Xiêm đánh, triều đình bàn luận rất hăng nhưng thái độ của Minh Mệnh là tránh né, buông xuôi nên Anụ bị bắt, bị chết, nước Lào bị Xiêm biế thành một tỉnh (1831). Thái độ gần như thờ ơ, bỏ mặc này thật đáng tiếc, đáng trách.
            b) Vụ Ang Mây ở Campuchia xảy ra sau 6 năm là một thử thách quyết liệt hơn nữa. Sự tranh chấp giữa triều đình Xiên và Nguyễn về vấn đề Campuchia diễn ra từ lâu, từ 1767 đến khi vua Ang Chan lên ngôi ở Cmpuchia năm 1806 rồi ốm chết năm 1834, triều đình Nguyễn ủng hộ cho con gái Ang Chan là Ang Mây lên ngôi, lại đặt Trấn Tây thành để ủng hộ cho nữ vương mới. Cuộc chiến tranh thực sự đã nổ ra; ủng hộ và giúp đỡ Ang Mây là cần và đúng nhưng rồi lại đặt chế độ “bảo hộ” cùng với quân đồn trú là sai, nên hệ quả là phải tham chiến với Xiêm thật là tai hại. Cả hai bên Xiêm-Việt dường như đã vét đến người cuối cùng và đồng tiền cuối cùng để lao vào cuộc chiến. Vua Minh Mệnh quyết không chịu lui quân, mặc dù đã có sự can gián khẩn thiết của các trọng thần như Nguyễn Công Trứ, Phan Thanh Giản, Lê Minh Đức. Chỉ đến khi cả hai bên không ai thắng ai thì mới chấp nhận “hòa” (năm 1847) tức là năm cuối cùng đời vua Thiệu Trị. Đây là một chính sách vô cùng hao tài tốn của, không hiệu quả vắt kiệt sức dân sức nước.
            c) Vụ cấm đạo được thực hiện một cách kiên quyết trong suốt 3 đời vua; trước sau có tới 16 đạo dụ và nhiều điều lệ cấm truyền bá đạo Kitô, thậm chí bắt bỏ, đàn áp, hành hình. Đánh giá việc này rất phức tạp “Đúng hay sai, nên hay không nên?”, “Có lúc, có trường hợp nó gắn với ngoại bang hay không gắn?” Ở đây, theo tôi có hai mặt của vấn đề văn hóa, không phải vấn đề ngoại bang.
            Kitô giáo, cũng như Islam là tôn giáo nhất thần, tôn sung và chủ trương phục tùng tuyệt đối vị thần tối cao duy nhất, chỉ có một cây thập tự nhỏ, treo thờ tượng trưng, không có và không chấp nhận thờ tượng, bàn thờ, bát hương, linh thú, linh điểu, rượu thịt, ăn uống sau thờ cúng. Ngược lại những người theo nho học là một hệ tư tưởng hơn là một tôn giáo, mang tính duy lý, ít nhiều phủ nhận điều huyễn hoặc phi lý, lại đã trải qua hang nghìn năm “theo đạo” thờ cúng tổ tiên, mà tổ tiên là ông bà, là người thì phải cúng, có ăn uống như người thực sự đang sống. Ở đây nhiều cách lý giải việc này nhưng theo tôi, chê bên này một ít, trách bên kia một điều không đúng. Ngày nay, đã trải qua hơn trăm năm nhưng người Việt theo Kitô giáo sống trong long dân tộc đã có sự dung hòa hợp lý: kết hợp kính Chúa và yêu nước; nhiều người vừa đi lễ nhà thờ cúng tổ tiên, ở nhà có bàn thờ, bát hương. Đó là quyền tự do của mỗi người. Một thực tế lịch sử đã xảy ra làm xáo động xã hội và không thể không làm lao đao triều đình nhà Nguyễn.
            d) Nhưng làm lao đao hơn nhiều chính là sự việc xảy ra ở bên trong. Nhiều năm mất mùa, nhà nước lại đánh thuế cao để bù chi phí chiến tranh, dân đói to, bất bình nỗi dậy chống lại từ địa phương đến triều đình Trung ương. Trong khoảng 50 năm với khoảng 300 cuộc khởi nghĩa nông dân, trong đó có 8 cuộc có tên tuổi, kéo khá dài. Triều đình có thể có một biện pháp đàn áp, tức là lại tiến hành những cuộc chiến tranh lớn nhỏ nhưng lại để chống lại chính nhân dân của mình.
            Cho nên, có thể nói đến Thiệu Trị còn cố cưỡng lại trước những thử thách, thì đến Tự Đức (1848 – 1883) hầu như chịu bó tay, buông xuôi. Ông vua này lại ở ngôi quá lâu, 35 năm mà 20 năm cuối (1862 – 1883) diễn ra cảnh thực dân Pháp xâm chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Bộ đến cả nước.
            Có tác giả nêu lên vấn đề tại sao một dân tộc từng đánh bại nhanh chóng hang chục vạn quân Nguyên, hang chục vạn quân Thanh lại tỏ ra hoàn toàn thụ động trước mấy nghìn quâ Pháp, có nơi chỉ mấy chục? Lý do đói kém không đủ giải thích, lý do ưu thế vũ khí thực tế cho thấy có thể khắc phục được bằng phục kích, đột kích và số đông. Bằng cứ là sau đó là nhân dân tự động tổ chức kháng chiến, tập kích từng trận có hiệu quả nhưng không giành được thắng lợi vì thiếu một tổ chức chung. Lý do chủ yếu có lẻ là sự khủng hoảng niềm tin, sự mất phương hướng hoàn toàn, đã có thể đẩy một dân tộc anh hung phải chán chường thụ động, quay lưng lại thực tế đau long “rằng quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu” (Tam nguyên Nguyễn Khuyến). Trước nũa cả khi quân Pháp tấn công, đã có tâm trạng “Trải qua một cuộc bể dâu, những điều trông thấy mà đau đớn long” (Nguyễn Du). Chẳng còn điều gì để nói về Tự Đức nữa.
3. Giai đoạn 3 có 5 vua trong 5 năm (1883 – 1888).
Là sự thay đổi ngôi đến chóng mặt, hoàn toàn theo sự dàn cảnh của thực dân Pháp. Tuy vua Hàm Nghi nằm trong số 5 vua nhưng không thể xếp cùng trong hệ thống này.

4. Vua Hàm Nghi mở đầu cho giai đoạn 4.

            Không thể thừa nhận chế độ bù nhìn cùng với chiếu Cần Vương là sự phản ứng khí phách bất khuất của một dân tộc anh hung chống lại chế độ cai trị đã được thiết lập, nhưng ở thế yếu ớt, bị động, lẻ tẻ.
            Tiếp theo là hai vua Thành Thái (1889 – 19907) và vua Duy Tân (1907 – 1916). Hai ông vua này được giáo dục thấm đượm tinh thần văn hóa truyền thống, nên mặc dù trong hoàn cảnh đã bị chính quyền thực dân hoàn toàn khống chế và o ép, vẫn kiên cường tỏ thái độ chống lại: phản kháng kiên quyết nên thà bị bắt, bị đi đày đảo xa còn hơn giữ ngai vàng bù nhìn, chịu khổ ải thân mình còn hơn chấp nhận phận nô lệ của nhân dân. Hành động của ba vua này đáng là niềm tự hào vĩ đại cho cả vương triều có không ít sai lầm và khuyết điểm này, là niềm an ủi  rất lớn cho truyền thống bất khuất của dân ta, là ngọn đèn còn được thắp sang trong đêm đen.

            5. Giai đoạn cuối cùng gồm 2 vua Khải Định và Bảo Đại kéo dài khá lâu (1916 – 1945) nhưng hoàn toàn do thực dân Pháp tạo dựng theo kiểu mẫu của Pháp, theo yêu cầu của thực dân Pháp. Thiết nghĩ cũng không cần để công chê trách làm gì, nó như thế không thể khác. Làm vua, có quần thần nghi vệ nhưng không thể trị vì, làm vua thật, thì chẳng nhẽ suốt ngày ngồi nghĩ ngợi mà nghĩ cái gì, thì tốt hết là đi săn bắn, đánh bài, tiệc tùng nhảy đầm, lâu thành thói quen, thành nếp kh6ng bỏ được. Vua thích thú mà người Pháp cũng hài long.
            Cách mạng nhân dân nổ ra, nghe nói Bảo Đại khá tự nguyện thoái vị, thực sự bằng long làm dân nước tự do và khá thích thú làm cố vấn chính phủ nhưng ông không thể làm và quen làm việc thực. Điều ông quen và thích là các thú ăn chơi. Hồ chủ tịch hiểu điều này hơn ai hết, nên nếu giữ không được thì nên để cho ông đi. Nay thì chúng ta hãy để cho ông được “Tây phương cực lạc”.
            Vương triều phong kiến cuối cùng hình thành trong điều kiện lịch sử đất nước, lịch sử vùng và lịch sử thế giới như con thuyền đi trên biển, trong going bão, tuy đầy tham vọng nhưng thuyền nhỏ mà tay lái kém; không biết bơi nên nó đã chìm. Nhưng nhân dân không chìm cùng với nó. Nhân dân đã tập bơi, tự bơi và đã đến bờ.
            Nhìn chung con thuyền cũ của mình, thương nó, nó cũ quá và đã chìm mất rồi. Con thuyền cũ của mình – đó là vấn đề tôi đặt đặt ra để suy nghĩ và lạm bàn.




¯ Đại học Quốc gia Hà Nội

No comments:

Post a Comment