Friday, March 25, 2016

ĐÀO TẤN (Đào Đăng Tiến, Đào Tiến, 1845 – 1907)

Nhà thơ, nhà viết tuồng nổi tiếng, tự Chỉ Thúc, hiệu Mộng Mai, Mai Tăng, sinh tại làng Vĩnh Thạnh, phủ Tuy Phước, tỉnh Bình Định, trong một gia đình nông dân. Lúc nhỏ, ông là học trò của Nguyễn Diêu, tác giả của nhiều vở tuồng có tiếng. Chịu ảnh hưởng của thấy học nên ông đã tập viết tuồng từ thuở còn trẻ. Năm 22 tuổi Đào Tấn đậu Cử nhân (1867). Bốn năm sau ông vào làm Hiệu thư ở Huế, chuyên soạn các vở tuồng theo lệnh của vua Tự Đức. Các vở Đảng khấu, Bình địch, Tam bảo thái giám thủ biểu được viết trong thời gian này. Năm 1874 ông được bổ nhiệm làm Tri phủ Quảng Trạch sau Thăng Thừa chỉ, Thị độc rồi Phủ doãn tỉnh Thừa Thiên (1878). Ông phụng chỉ soạn các vở tuồng như Tư Quốc Lai Vương, Quần Trân Hiến Thụy. Người ta kể lại rằng, ông soạn vở Vạn bảo trình tường lúc đang làm quan ở Quảng Ngãi, có kẻ thấy ông chỉ lo soạn tuồng mà lơ là việc quan nên đêm đến viết ở hai bên cổng dinh đường câu đối: “Hát hay, học dở”. Sáng ra được lính canh báo và xin cho xóa đi, nhưng ông cười và cản lại. Đếm đến, từ bố chữ trên ông viết thành câu đối rất chỉnh, với nét chữ bay bướm, tài hoa: “Hát hay chính kép Qui Nhơn thiệt; Học dỡ làm quan Quảng Ngãi chơi”, làm cho dân chúng ở tỉnh lỵ Quảng Ngãi phải sững sốt và thán phục. Tài viết chữ đẹp của Đào Tán làm nên giai thoại sau: Con quan Tổng đốc Quảng Ngãi vì chuộng nét chữ tài hoa của Đào Tấn nên hay sưu tập bút tích của ông. Biết được điều đó, bạn ông là Võ Văn Nho thường đến xin bút tích của ông rồi đưa cho con của quan Tổng đốc đổi lấy thịt. Đến ngày sinh của Đào Tấn, Văn Nho lại viết thư chúc mừng mong được thư trả lời. Nhưng Đào Tấn đã biết chuyện, không phúc đáp lại. Khi người nhà của bạn giục, ông cười bảo: “Anh về bảo Văn Nho, bữa nay kiêng không sát sinh”. Khi Tự Đức mất (1883) ông cáo quan về nhà nhưng sau đó lại ra làm quan dưới triều Đồng Khánh. Đào Tán cũng là người nổi tiếng thẳng thắng, bộc trực. Năm 1885, sau khi kinh đô Huế thất thủ, người Pháp đặt ách đô hộ ở Trung kỳ, dung hang trăm bồi bếp làm tay chân. Bọn này cậy thế người Pháp, nên thường hà hiếp, bắt nạt từ dân đến quan, khiến ai cũng phải sợ. Đào Tấn cho người theo dõi và lập hồ sơ bồi Ba, một tay sai khét tiếng của Pháp. Khi đã đầy đủ bằng cớ, ông cho bắt và đem chém ở bờ sông Hương. Được tin, viên Khâm sứ Pháp đến can thiệp nhưng trước tội trạng rành rành của bồi Ba đành phải ngậm miệng. Sau vụ này, các quan đại thần trong triều phải phục “ông Phủ doãn có máu Quan Vân Trường”. Năm 1889, ông được bổ nhiệm làm Tổng đốc An – Tĩnh (Nghệ An – Hà Tĩnh), rồi lần lượt làm Thượng thư Bộ Công, Thượng thư Bộ Binh, Thượng thư Bộ Hình. Ông tiếp tục soạn các vở tuồng như: Diễn Võ đình, chỉnh lý lại các vở Khuê các anh hùng (tức Tam nữ đồ vương), Sơn hậu, Đào Phi Phụng. Năm 1898, ông lại được bổ lam Tổng đốc An – Tĩnh lần thứ hai. Thời gian này ở Nghệ An, Phan Bội Châu* đang tích cực hoạt động chống Pháp. Mặc dù trước đó ông không tham gia phong trào Cần Vương và Văn Thân, Đào Tấn đã ngấm ngầm giúp đỡ nhà cách mạng họ Phan. Cũng ở đây, ông soạn thêm các vở Quan Công quá quan, Trầm hương các, Hoàng Phi Hổ quá quan, Hổ danh đàn. Ông còn sáng tác gần 1.000 bài thơ và từ, tập hợp trong các tập Mộng Mai ngâm thảo, Mộng Mai thi tồn, Mộng Mai tù lạc, Mộng Mai văn sao. Năm 1902, Đào Tấn được gọi về triều làm Thượng thư Bộ Công, nhưng được hai năm phải về hưu vì mâu thuẫn với Nguyễn Thân, Thượng thư Bộ Lại một kẻ thân Pháp. Ngày rằm tháng Bảy năm Đinh mùi (23.8.1907) Đào Tấn qua đời, để lại cho hậu thế những vở tuồng được nhiều người ưa thích.

V.H.L

Theo "Những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam", Tôn Nữ Quỳnh Trân (CB), NXB Văn hóa thông tin, NXB 1993

No comments:

Post a Comment