Nhà thơ, nhà viết tuồng nổi tiếng, tự Chỉ Thúc, hiệu Mộng Mai, Mai Tăng,
sinh tại làng Vĩnh Thạnh, phủ Tuy Phước, tỉnh Bình Định, trong một gia đình
nông dân. Lúc nhỏ, ông là học trò của Nguyễn Diêu, tác giả của nhiều vở tuồng
có tiếng. Chịu ảnh hưởng của thấy học nên ông đã tập viết tuồng từ thuở còn trẻ.
Năm 22 tuổi Đào Tấn đậu Cử nhân (1867). Bốn năm sau ông vào làm Hiệu thư ở Huế,
chuyên soạn các vở tuồng theo lệnh của vua Tự Đức. Các vở Đảng khấu, Bình địch, Tam bảo thái giám thủ biểu được viết trong thời
gian này. Năm 1874 ông được bổ nhiệm làm Tri phủ Quảng Trạch sau Thăng Thừa chỉ,
Thị độc rồi Phủ doãn tỉnh Thừa Thiên (1878). Ông phụng chỉ soạn các vở tuồng
như Tư Quốc Lai Vương, Quần Trân Hiến Thụy.
Người ta kể lại rằng, ông soạn vở Vạn bảo
trình tường lúc đang làm quan ở Quảng Ngãi, có kẻ thấy ông chỉ lo soạn tuồng
mà lơ là việc quan nên đêm đến viết ở hai bên cổng dinh đường câu đối: “Hát
hay, học dở”. Sáng ra được lính canh báo và xin cho xóa đi, nhưng ông cười và cản
lại. Đếm đến, từ bố chữ trên ông viết thành câu đối rất chỉnh, với nét chữ bay
bướm, tài hoa: “Hát hay chính kép Qui Nhơn thiệt; Học dỡ làm quan Quảng Ngãi
chơi”, làm cho dân chúng ở tỉnh lỵ Quảng Ngãi phải sững sốt và thán phục. Tài
viết chữ đẹp của Đào Tán làm nên giai thoại sau: Con quan Tổng đốc Quảng Ngãi
vì chuộng nét chữ tài hoa của Đào Tấn nên hay sưu tập bút tích của ông. Biết được
điều đó, bạn ông là Võ Văn Nho thường đến xin bút tích của ông rồi đưa cho con
của quan Tổng đốc đổi lấy thịt. Đến ngày sinh của Đào Tấn, Văn Nho lại viết thư
chúc mừng mong được thư trả lời. Nhưng Đào Tấn đã biết chuyện, không phúc đáp lại.
Khi người nhà của bạn giục, ông cười bảo: “Anh về bảo Văn Nho, bữa nay kiêng
không sát sinh”. Khi Tự Đức mất (1883) ông cáo quan về nhà nhưng sau đó lại ra
làm quan dưới triều Đồng Khánh. Đào Tán cũng là người nổi tiếng thẳng thắng, bộc
trực. Năm 1885, sau khi kinh đô Huế thất thủ, người Pháp đặt ách đô hộ ở Trung
kỳ, dung hang trăm bồi bếp làm tay chân. Bọn này cậy thế người Pháp, nên thường
hà hiếp, bắt nạt từ dân đến quan, khiến ai cũng phải sợ. Đào Tấn cho người theo
dõi và lập hồ sơ bồi Ba, một tay sai khét tiếng của Pháp. Khi đã đầy đủ bằng cớ,
ông cho bắt và đem chém ở bờ sông Hương. Được tin, viên Khâm sứ Pháp đến can
thiệp nhưng trước tội trạng rành rành của bồi Ba đành phải ngậm miệng. Sau vụ
này, các quan đại thần trong triều phải phục “ông Phủ doãn có máu Quan Vân Trường”.
Năm 1889, ông được bổ nhiệm làm Tổng đốc An – Tĩnh (Nghệ An – Hà Tĩnh), rồi lần
lượt làm Thượng thư Bộ Công, Thượng thư Bộ Binh, Thượng thư Bộ Hình. Ông tiếp tục
soạn các vở tuồng như: Diễn Võ đình,
chỉnh lý lại các vở Khuê các anh hùng
(tức Tam nữ đồ vương), Sơn hậu, Đào Phi
Phụng. Năm 1898, ông lại được bổ lam Tổng đốc An – Tĩnh lần thứ hai. Thời
gian này ở Nghệ An, Phan Bội Châu* đang tích cực hoạt động chống Pháp. Mặc dù
trước đó ông không tham gia phong trào Cần Vương và Văn Thân, Đào Tấn đã ngấm
ngầm giúp đỡ nhà cách mạng họ Phan. Cũng ở đây, ông soạn thêm các vở Quan Công quá quan, Trầm hương các, Hoàng
Phi Hổ quá quan, Hổ danh đàn. Ông còn sáng tác gần 1.000 bài thơ và từ, tập
hợp trong các tập Mộng Mai ngâm thảo, Mộng
Mai thi tồn, Mộng Mai tù lạc, Mộng Mai văn sao. Năm 1902, Đào Tấn được gọi
về triều làm Thượng thư Bộ Công, nhưng được hai năm phải về hưu vì mâu thuẫn với
Nguyễn Thân, Thượng thư Bộ Lại một kẻ thân Pháp. Ngày rằm tháng Bảy năm Đinh
mùi (23.8.1907) Đào Tấn qua đời, để lại cho hậu thế những vở tuồng được nhiều
người ưa thích.
V.H.L
Theo "Những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam", Tôn Nữ Quỳnh Trân (CB), NXB Văn hóa thông tin, NXB 1993
No comments:
Post a Comment