Nhà giáo, nhà nghiên cứu Hán học nổi tiếng, người làng Cao Xá, xã Thịnh
Mỹ, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An (Nghệ Tĩnh), xuất thân trong một gia đình nhà
nho có truyền thống khoa cử. Ông nội là Cao Xuân Dục, từng giữ chức Thượng thư
Bộ Học triều vua Tự Đức, thân sinh của ông cũng đậu Phó Bảng. Từ nhỏ ông học chữ
Hán nhưng năm 1919 việc thi chữ Hán bị bỏ hẳn, ông vào học tại trường Cao đẳng
Sư phạm Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp (1925), ông vào dạy học tại Sài Gòn, rồi Huế
cho đến Cách Mạng Tháng Tám. Gia nhập công cuộc kháng chiến, ông làm Hiệu trưởng
trường Trung học Nguyễn Xuân Ôn ở quê. Từ năm 1949 ông liên tục phục trách giảng
dạy môn Lịch sử tư tưởng triết học phương Đông cổ đại trong các trường đại học ở
vùng kháng chiến chống Pháp và sau đó ở Hà Nội. Năm 1958 ông được chính phủ Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa phong làm Giáo sư. Trong 53 năm làm nghề dạy học, ông luôn
luôn tận tụy và say mê nghiên cứu. Nhiều công trình về Khổng Mạnh, Tống Nho,
Huyền học, Phật học, Hàn Phi, Mạnh Tử, Lão Trang, Kinh Dịch có sự đóng góp to lớn
của ông. Giáo trình Toàn tập bài giảng về
Luận ngữ, “Mạnh Tử”, “Bách gia chi tử” lên đến nghìn trang là những tài liệu
có giá trị. Ông còn chỉ đạo, hiệu duyệt, khảo dịch, hoặc giới thiệu cho nhiều
tác phẩm nổi tiếng về triết học, văn học cổ được xuất bản trước đây như: Khóa hư lục của Trần Thái Tông, thơ Thiền của Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trúc Lâm Tông chỉ nguyên thanh của Ngô Thì Nhậm. Thơ
văn Lý Trần (tập một và ba), Thơ văn
Ngô Thì Nhậm, Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn…
Ông mất tại thành phố Hồ Chí Minh.
V.H.L.
Theo "Những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam", Tôn Nữ Quỳnh Trân (CB), NXB Văn hóa thông tin, NXB 1993
No comments:
Post a Comment