Có sách ghi là Chu Văn An, danh nho đời nhà Trần, quê làng Quang Liệt,
huyện Thanh Đàm (Thanh Trì – Hà Nội). Ông đỗ Thái học sinh năm 1314 nhưng không
ra làm quan, chỉ ở nhà dạy học. Học trò kéo đến xin học rất nhiều, trong số đó
có những người sau này nổi danh, cũng đỗ Thái học sinh như Phạm Sư Mạnh, Lê
Quát. Một huyền thoại được truyền tụng trong dân gian về tài đức lớn có thể
giáo dục được cả thần của ông như sau: Trong số học trò có một người rất chăm
chỉ, sáng nào cũng đến rất sớm nhưng tông tích thì không rõ, Chu An bè cho người
dò tìm, biết đó là thần nước. Ông vẫn tiếp tục dạy người ấy như không có gì xảy
ra. Đến năm hạn hán, dân gặp nạn đói, ông ướm hỏi người ấy có thể làm mưa giúp
dân được không. Người ấy xin nhận và nói: “Con vâng lời thầy là trái lệnh Thiên
đình, nhưng con cứ làm để giúp dân. Mai kia nếu có chuyện gì không hay, mong thầy
chu toàn cho”. Xong, đem nghiên mực ra sân, ngửa mặt khấn vái, đoạn vẩy mực ra
chung quang rồi tung cả nghiên lẫn bút lên trời. Tức thì mây đen kéo đến, mưa
trút xuống xối xả. Đêm ấy, có tiếng sét nổ lớn và sáng ra dân làng thấy xác thuồng
luồng nổi lên ở đầm. Chu An khóc lóc thảm thiết, cùng học trò và dân các làng
chôn cất chu đáo. Sau đó, dân làng lập đền thờ thần. Lưu truyền rằng chỗ nghiên
mực rơi xuống biến thành một đầm nước đen nên có tên là Đầm Mực, còn quản bút
thì rơi xuống làng Tả Thanh Oai, nơi sau này phát tiết thành đất văn học có những
gia đình nổi tiếng như dòng họ Ngô Thì.
Vì danh tiếng uyên thâm của Chu An, Trần Minh Tông đã bổ nhiệm ông làm
Tư nghiệp Quốc tử giám và dạy học cho Trần Hạo (sau là Trần Dụ Tông). Trần Hạo
lên ngôi vua, ăn chơi buông thả để mặc triều thần làm nhiều điều phi pháp vì thế
chính sự vô cùng bại hoại, dân chúng ta thán. Chu An can gián nhiều lần nhưng
không thuyết phục được vua, ông bèn đệ trình “Thất trảm sớ” xin chém bảy nịnh
thần, những người làm dụng quyền thế, a dua xu nịnh vua trong việc ăn chơi. Nhà
vua không nghe theo, Chu An trả mũ áo từ quan về ở ẩn tại núi Chí Linh, từ đó lấy
tên hiệu là Tiều Ân.
Các tác phẩm của Chu An như Tứ thư
thuyết ước, Thất trảm sớ, Tiều Ân thi tập… đều bị thất truyền vì quân Minh,
sau khi thắng nhà Hồ (1407) đã tịch thu đem về Trung Quốc. Hiện nay, hậu thế chỉ
có thể căn cứ trên cuốn Chu An – trinh công
thi tập gồm mười bài thơ mà bảy bài đã được Bùi Huy Bích* chép lại trong Hoàng Việt thi tuyển: Chí Linh sơn tạp hứng,
Thanh Hương giang, Nhật tịch bộ tiên du sơn tùng kinh…
Chu An mất ngày 26.11 năm Canh Tuất (1370), được Trần Nghệ Tông ban tên
thụy là Văn Trinh (bên ngoài thuận nhã, bên trong chính trực) và dành cho vinh
dự lớn đối với trí thức thời ấy là được thờ ở Văn Miếu.
Q.T.
Theo "Những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam", Tôn Nữ Quỳnh Trân (CB), NXB Văn hóa thông tin, NXB 1993
No comments:
Post a Comment