Nhà văn, nhà trong những người lãnh đạo Đông Kinh Nghĩa Thục, hiệu Tuyết
Huy, người làng Phú Thị, tổng Mễ Sở, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên (Hải
Hưng), xuất thân trong một gia đình nho học. Thuở nhỏ, ông đã tỏ ra là người
thông minh xuất chúng. Năm 16 tuổi đỗ Cử nhân nhưng không ra làm quan và mấy
năm sau (1903) ông cùng với bạn là Lương Ngọc Quyến* đi theo con đường tân học,
bài xích cách học từ chương. Ông tham gia vào phong trào Đông Du và là người tổ
chức thanh niên (trong đó có Lương Ngọc Quyến) sang Nhật chuyến đầu tiên
(1905). Ở lại trong nước, ông cùng các nhân sĩ như Lương Văn Can*, Nguyễn Quyền*,
Đào Nguyên Phổ*, Hoàng Tăng Bí*… sáng lập ra Đông Kinh Nghĩa Thục, chủ trương bỏ
lối khoa cử cũ và duy tân kiến thiết nước nhà. Có lần ông cùng với Lương Trúc
Đàm (con trai của Lương Văn Can) tổ chức diễn thuyết ở đền Ngọc Sơn trên hồ
Hoàn Kiếm thì bị mật thám bắt, nhưng thiếu bằng cớ nên nhà cầm quyền Pháp phải
thả ông ra. Đến khi Đông Kinh Nghĩa Thục bị đóng cửa (12.1907), chính quyền bảo
hộ đề nghị ông giữ một chức Tri huyện nhưng ông từ chối. Năm 1908 ông bị lùng bắt
vì nhà cầm quyền Pháp nghi ngờ ông lãnh đạo phong trào nông dân chống thuế ở miền
Trung và có liên can vụ Hà Thành đầu độc do Hoàng Hoa Thám chủ trương. Rất nhiều
nhân sĩ bị bắt trong vụ này như Trần Quý Cáp*, Phan Chu Trinh*, Trần Cao Vân*,
nhưng ông trốn được. Bị bắt thay cho con, thân sinh của ông viết thư nhắn: “Tổ
quốc khả dĩ vô ngã, bất khả dĩ vô nhi” (Tổ quốc có thể không có cha, nhưng
không thể không có con) để khuyên Dương Bá Trạc không ra trình diện, nhưng vì
thương cha ông đã để cho thực dân Pháp bắt. Thực dân Pháp giam ông ở Hỏa Lò rồi
đày ra Côn Đảo sau đó đưa ông về an trí ở Long Xuyên. Tại đây Dương Bá Trạc bắt
liên lạc được với Lương Ngọc Quyến, bàn việc xây dựng lực lượng ở Xiêm. Trên đường
sang Siêm gặp trắc trở Lương Ngọc Quyến phải quay về Trung Quốc thì bị bắt.
Sau khi hết hạn an trí, Dương Bá Trạc hợp tác với các tờ báo “Nam Phong
tạp chí”, “Trung Bắc Tân Văn”, “Văn Học”. Ông còn cho ra đời các tác phẩm: Trai lành gái tốt (1924), Chuyên giải trí (1924), Luận ngữ (dịch) Tiếng gọi đàn (1925), Bức thư
ngỏ cùng quan Tổng trưởng thuộc địa (1931) Gia lễ giản yếu (1932)…
Năm 1944, ông cộng tác cùng Trần Trọng Kim, định dựa vào thế lực của Nhật
để chống Pháp. Ông theo một số người Nhật sang Nam Dương, Thái Lan, nhưng đến
Tân Gia Ba thì mất vì bạo bệnh.
V.H.L
Theo "Những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam", Tôn Nữ Quỳnh Trân (CB), NXV Văn hóa thông tin, NXB 1993
No comments:
Post a Comment