GS.
TRƯƠNG HỮU QUÝNH[1]
Tháng
6 năm Nhâm Tuất (7-1802), Vương triều Tây Sơn sụp đổ, Nguyễn Ánh đặt chân lên
đất Thăng Long, trở thành người chủ của toàn bộ đất nước, từ Đàng Trong đến
Đàng Ngoài. Xuất phát từ dòng họ chúa Nguyễn ở Đàng Trong, hôn hai mươi năm
chiến đấu với tâm nguyện “nghĩa lớn kinh Xuân thu không gì lớn bằng trả thù” (Lời
Hịch khi tiến quân ra Bắc Hà đánh Tây Sơn) sẵn sàng thực hiện phương châm “vì
mục đích bất chấp biện pháp”, Nguyễn Ánh cùng các tướng lĩnh của mình không
khỏi mang trong lòng đầy mặc cảm khi đối mặt với tình thế mới. Hàng loạt mâu
thuẫn, thách thức đang đặt ra trước triều đình Nguyễn trong suốt nữa thế kỷ và
có thể nói rằng, trong lịch sử dân tộc cũng như trong lịch sử thế giới, không
một triều đại nào ra đời và tồn tại trong một bối cảnh đầy thách thức như vậy.
Có thách thức tất phải có giải pháp và phải chăng thông qua những giải pháp mà
các vua Nguyễn đã làm giới sử học có những nhìn nhận, đánh giá khác nhau, thậm
chí đối lập nhau.
1.
Thách thức
thứ nhất:
Cuộc
chiến tranh Nguyễn – Tây Sơn kết thúc với thắng lợi của lực lượng Nguyễn Ánh.
Đất nước thống nhất lại dưới chủ quyền của một tập đoàn phong kiến duy nhất với
điều tất yếu xảy ra là sự hình thành một nhà nước mới, một triều đại phong kiến
mới thống trị toàn bộ đất nước, tương ứng với các triều đại Lý, Trần, Lê. Đối
với Nguyễn Ánh rõ ràng đây là một thách thức lớn. Vì sao? Thách thức phải giải
quyết nhưng giải quyết như thế nào và vào lúc nào để hoàn thành tâm nguyện vừa
không gây đến những phản ứng, những biến động lớn ảnh hường đến thắng lợi vừa
đạt được?
Hãy
điểm lại sự việc. Ngay từ khi chuẩn bị xuất quân ra Bắc Hà, trong cuộc hội bàn
với các tướng lĩnh thân cận. Nguyễn Ánh đã nói: “Bắc Hà là nước cũ của nhà Lê,
từ khi liệt thánh ta xây dựng cơ nghiệp ở miền nam, hơn 200 vẫn theo chính sách
nhà Lê. Gần đây, Tây Sơn trộm quyền, ta phải lo dụng binh chỉ là để phục thù mà
thôi. Nay bờ cõi đã được khôi phục mà đầu xỏ giặc lại trốn ra Bắc…Vậy thì sau
khi bắt được tội nhân rồi, đối với nhà Lê sẽ ra sao?”[2].
Nghĩa là theo Nguyễn Ánh, sự việc này gây nên hai điều mặt cảm: một là, dòng họ
Nguyễn, tổ tiên của ông, vốn là cựu thần của nhà Lê, hai trăm năm trước tuy làm
chủ đất Đàng Trong nhưng chưa từng là một vương triều hoàn toàn độc lập, dù cho
bệc tiền bối Nguyễn Phúc Khoát có bước đầu khởi động. Xóa bỏ nhà Lê, thành lập
một triều đại mới có phải là một việc hợp lòng người, nhất là đối với người Bắc
Hà hay không? Những việc làm của họ Trịnh trước đây đâu phải là không để lại
một bài học nào? Thứ hai, họp binh dấy nghĩa trong suốt mấy chục năm ở đất Gia
Định “chỉ là để phục thù cho dòng họ mà thôi” chứ đâu phải với ý đồ giành quyền
bá chủ thiên hạ. Vậy giờ dây, nếu đánh thắng Tây Sơn, lên ngôi, xưng đế, thì
điều đó có trái với ý nguyện và mục đích ban đầu hay không? Thế gian sẽ nghĩ
như thế nào?
Thấu
hiểu tâm tư của chủ, một số triều thần đã viện đủ lý do: “Từ khi vua Lê chạy
sang nước Thanh, đi không thấy trở lại, đất Bắc Hà đã lọt vào tay giặc Tây Sơn
rồi. Huống chi, từ khi quân nhà vua (chỉ Nguyễn Ánh) lấy lại đô cũ đến nay,
những tôi dân nhà Lê không một ai ứng nghĩa đánh giặc, thế nhà Lê không dấy lại
được nữa đã có thể thấy rõ rồi. Nay ta diệt được giặc Tây Sơ, chiếm được đất
đai, đó là ta lấy ở giặc Tây Sơn chứ không phải lấy ở nhà Lê… Nay ta đánh miền
Bắc mà vẫn còn dùng niên hiệu nàh Lê e rằng người Bắc bảo ta mượn tiếng phù Lê,
chi bằng cứ chính đế vị, đổi niên hiệu, bày tỏ đại nghĩa với thiên hạ, như thế
thì được nước chính đáng, không ai dị nghị được [3]
Vốn
là một người từng trải, nếm mật nằm gai, lăn lộn trong hơn hai mươi băm chiến
tranh với Tây Sơn, Nguyễn Ánh yên lòng với sự ủng hộ của các tướng lĩnh thân
cận, song vẫn tạm gác lại vấn đề lại. Đợi đến mấy ngày sau, khi phần đông triều
thần chính thức tâu: “Cúi xin vương thượng…trên vâng ý Trời, dưới theo lòng dâ,
sớm lên ngôi tôn, xuống chiếu đổi niên hiệu[4],
Ngyễn Ánh mới dè dặt dáp lại: “Thành Gia Định vừa lấy lại, đã lên ngôi Vương vì
lòng người đã tôn kính lâu rồi. Nay kinh đô cũ vừa mới khôi pục, mà giặc nướ
chưa trừ xong, việc lên ngôi chưa thể bàn được. Duy vương giả đổi họ chịu mệnh
…năm phải có hiệu cho nên đổi niên hiệu là phải”[5]
Và
ngày mủng 1 tháng 5 năm Nhâm Tuất (31/5/1802) Nguyễn Ánh cho lập đàn ở An Ninh
(Thừa Thiên) tế cáo đất trời, “đặt niên hiệu Gia Long)5. Nhưng đó
chỉ là bước thứ nhất của giải pháp. Có người nghĩ rằng sở dĩ Nguyễn Ánh chỉ đổi
niên hiệu, chưa xưng đế là vì sợ nhà Thanh nghi ngờ; hơn nữa, phải đến khi
chính thức xưng Hoàng đế, Gia Long mới tự gọi là “Trẫm”. sự thực không phải như
thế.
Vấn
đề là ở chỗ, theo lễ giáo Nho gia, ngay cả việc Nguyễn Ánh đặt niên hiệu cũng
không hợp lẽ. Vì niên hiệu là một tiêu chí pháp lý ghi nhận sự tồ tại của một
ông vua, đứng đầu một quốc gia riêng biệt. Ở thời điểm này, lực lượng của
Nguyễn Ánh mới chiếm lại được Phú Xuân, đô thành cũ của Đàng Trong thời các
chúa Nguyễn. Dù được tôn làm Nguyễn Vương, Nguyễn Ánh vẫn chưa phải là một vua một
nước, chưa có quyền đặt niên hiệu. Hơn nữa, trong thực tế, đất Bắc Hà còn nằm
dưới quyền thống trị của vương triều Tây Sơn, thế lực của quân Nguyễn Ánh đang
lên nhưng không có nghĩa là họ sẽ nhanh chóng đánh bại các lực lượng của Tây
Sơn, hoàn toàn làm chủ cả nước. Điều này
có cơ sở thông qua các tư liệu về nữ tướng Bùi Thị Xuân. Không những thế, khi
đem quân từ Phú Xuân đánh ra Bắc Hà lực lượng Nguyễn Ánh không thể xem vương
triều Tây Sơn như một thế lực ngoại xâm để có thể làm theo cách của Nguyễn Huệ,
lập đàn lên ngôi Hoàng đế, đặt niên iệu, khẳng định quyền làm chủ của một dân
tộc độc lập, chỉ đạo cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Thanh. Nhìn lại xa
hơn về trước, chúng ta cũng thấy Lê Lợi trên bước đường tiến quân từ Thanh Hóa
ra Bắc đánh quân xâm lược Minh cũng chỉ xưng Bình Định Vương, không hề đặt niên
hiệu (chỉ đặt sau khi lên ngôi Hoàng đế 1428)
Vậy
tại sao, Nguyễn Ánh lại làm như vậy? Chắc chắn là một con người như Nguyễn Ánh
không thể không biết những điều nói trên, cũng không thể không biết ngay cả
những bậc tiền bối như Nguyễn Phúc Khoát cũng chưa dám đặt niên hiệu, nhưng vẫn
phài “dè dặt” đặt niên hiệu. Có lẽ, ông muốn làm vừa lòng các tướng lĩnh thân
cận, góp thêm sức và ý chí đánh bại Tây Sơn của họ. Đây là một chủ trương của
Nguyễn Ánh, ví như sử sách lại, đâu phải ngẫu nhiên mà trước đó, ít nhất đã bốn
lần ông hạ lệnh lập đền, truy tôn các tướng sĩ, binh đinh trận vong. Tất nhiên
việc đặt niên hiệu cũng là sự thề hiện một thắng lợi mới của tâm nguyện cá
nhân, vượt qua mục dích “phục thù Tây Sơn” ban đầu.
Bước
thứ nhất hoàn thành, nhưng giải pháp vẫn chưa trọn vẹn cho đến lúc đã “lấy trọn
đất An Nam mười bốn trấn”, lật đổ vương triều Tâ Sơn, hoàn thành ý nguyện “phục
thù”, Nguyễn Ánh xa giá ra Thăng Long mà không làm gì ngoài việc từ đây, chính
thức tự xưng “Trẫm” khi ban bố các điều lệnh.
Bước
thứ hai chỉ được thực hiện vào năm 1806, nghĩa là 4 năm sau khi tình hình đất
nước đã tạm ổn định, kinh đô Phú Xuân đã xây dựng xong, tên “Thăng Long” đã
được đổi nghĩa. “Mùa hạ tháng 5 năm Bính Dần” Nguyễn vương chính thức “lên ngôi
Hoàng đế ở điện Thái Hòa” xuống chiếu bố cáo trong ngoài”[6]
Và
như vậy, sau bốn năm tròn, thách thức thứ nhất đã được giải quyết khá êm đẹp.
2. Thách thức thứ hai:
Vương
triề Tây Sơn bị lật đổ. Đất nước đã hợp nhất lại sau 200 năm chia cắt, thậm chí
đã có lúc đứng trước nguy cơ bị tách thành hai quốc gia riêng biệt. Hơn tám đời
người đâu phải ngắn ngủi, dù cho tình cảm dòng họ gốc gác vẫn còn trong ký ức;
vả lại, sau 200 năm tồn tại riêng biệt, dù xuất phát từ một nguồn, Đàng Trong
đâu phải không có những nét chính trị, kinh tế, văn hóa khác biệt so với Đàng
Ngoài. Như Nguyễn Ánh đã từng suy nghĩ “Bắc Hà là nước cũ của nhà Lê” sau hơn
10 năm dưới triều Tây Sơn đâu có làm thay đổi đáng kể, đặc biệt trong tư tưởng
của các cựu thần nhà Lê, nho sĩ. Họ Nguyễn lại không như vương triều Tây Sơn,
một sản phẩm của phong trào Tây Sơn. Chưa “chính đế vị” ngay vẫn là một việc có
tính hình thức, vấn đề quan trọng hơn là giải quyết như thế nào về thể chế
chính trị ở hai miền? Có nên nhập mhay hai miền làm một, có cùng thể chế, đặt
dưới quyền của một triều đình Trung Ương hay không? Điều này đã khó nhưng khó
hơn là nhân dân và sĩ phu Bắc Hà có sãn sàng chấp nhận hay không? Rõ ràng đây
là một thách thức có ý nghĩa lâu dài
không chỉ đối với Gia Long mà còn cả đối với các vị vua kế nghiệp, nhất là Minh
Mệnh.
Cũng
theo tinh thần của vấn đề “chính đế vị”, đặt niên hiệu, Gia Long cùng các tướng
lĩnh trung thành đã tìm giải pháp từng bước cho thách thức.
Bước
thứ nhất, tháng 9 năm đó (Nhâm Tuất) khi sắp hồi loan về Phú Xuân, Gia Long đã
hạ lệnh hợp mười một trấn phía bắc của Thanh Hóa, nơi “dân vật đều mới mà thành
Thăng Long lại là nơi quan trọng của Bắc Hà”[7]
làm Bắc thành, củ Nguyễn Văn Thành, một vị tướng vừa có công lớn vừa hiểu biết
ít về chính trị, làm Tổng trấn. Nhà vua “ban cho sắc ấn, phàm những việc cất
bãi quan lại, xử quyết kiện tụng đều được tùy tiện mà làm rồi mới tâu sau”, đặt
ba tòa Hộ, Binh, Hình…theo tổng trấn xét biện công việc[8].
Với sự kiện này, Bắc thành trở thành một đơn vị hành chính tự trị, chỉ chịu sự
chỉ đạo chung của vua ở Trung ương. Trong bối cảnh của đất nước đương thời,
việc biến Bắc Hà thành một khu vực tự trị, dù đặt dưới một bộ máy quan lại
triều Nguyễn, không thể không tạo điều kiện cho những hoạt động có ảnh hưởng
đến nền thống trị chuyên chế của nhà nước Trung ương. Chắc chắn, một con người
như Gia Long không thể không hiểu điều đó, nhưng tình thế bắt buộc, chưa thể
làm khác được, vả lại đây chỉ là bước đầu, như sau này Minh Mệnh đã nhận xét:
“quyền nghi tạm đặt, thánh minh lo xa vẫn muốn sửa lại.[9]
Quả vậy, Gia Long sau đó đã từng bước ban hành một số biện pháp nhằm đảm bảo
quyền lực tập trung của mình, như cho xây dựng lại hệ thống đường cái quan từ
Nam ra Bắc, đặt hệ thống trạm dịch chuyển tấu, sớ, chiếu chỉ, năm 1804, nhất
thể hóa bộ máy chính quyền ở các dinh Đàng Trong cũ thành trấn. Để tỏ ra không
quá mặc cảm với đất ở Bắc Hà cũ, đồng thời như nhận xét của một vài nhà sử học,
để tạo nên một đối trọng nhòm ngó Bắc thành giúp mình, năm 1808, Gia Long cho
hợp nhất năm trấn cực Nam thành Gia Định thành, đặt chế độ tổng trấn tương tự
như Bắc thành. Cũng theo các nhà sử học nói trên, năm 1813, khi đưa Lê Văn
Duyệt lên làm tổng trấn Gia Định thay cho Nguyễn Văn Nhân, Gia Long đã thể hiện
nỗi lo lắng của mình. Điều này càng rõ hơn khi Nguyễn Văn Thành bị vu oan làm
phản và chịu tự tử để giữ toàn danh tiết, mặc dầu như sử cũ ghi lại là Gia Long
đã rất đau xót vì quyết định của minh.
Nhưng
bước thứ nhất cho đến khi Gia Long qua đời vẫn chưa kết thúc được. Người kế
nghiệp là Minh Mệnh vẫn thường xuyên bị ám ảnh, đau đầu vì thách thức này, nhất
là khi Nguyễn Văn Thành, Lê Chất chết, Lê Văn Duyệt tỏ ra không còn như trước
nữa. Năm 1836, khi thành Quảng Bình vừa đắp xong, Minh Mệnh xa giá ra thăm và
báo với các thị thần: “Một dải đường thành làm giới hạn Nam Bắc, xưa các vua
thánh ta thấy họ Trịnh chuyên quyền làm bậy nên đặt thành ấy để giữ nước, không
phải để chống nhà Lê. Hoàng Khảo thế tổ cao Hoàng đế ta trung hưng mà cả đất
Việt, vẫn muốn sửa sang nhưng chưa kịp… Thành này là then khóa ở cửa Bắc nên
sai trọng thần giữ, kinh binh đóng thú”[10]
rồi sai cấp dinh lỵ Quảng Bình 230 cỗ súng lớn, 200 giáo dài và 200 súng tay có
máy đá để bảo vệ thanh lũy (trong lúc đương thời Hà Nội có 150 cỗ súng lớn, Gia
định có 70 cỗ, Hải Dương, Nam Định có 200 cỗ). Mặc cảm càng tăng thêm vì đây là
thời gian mở rộng hoạt động của nghĩa quân Phan Bá Vanh, không thể dừng lại ở
biện pháp nửa với được, Minh Mệnh đã thực hiện bước thứ hai của giải pháp.
Năm
1831, trong một cuộc đàm đạo với triều thần, Minh Mệnh đã theo đền nghị của họ
“đến Minh, Thanh châm chước ngày càng kỹ… nên mô phỏng mà làm, tưởng cũng có
lợi nhiều lắm”[11]. Trong
mười lăm điều lợi mà họ nêu, có những điều như; “chấm dứt tình trạng phân
quyền, tránh được mối lo “đuôi to khó vẫy”, huy động quân không phải qua thành,
các hạt đều có trọng binh…”. Cuộc cải cách hành chính theo mô hình Minh Thanh
bắt đầu ở Bắc thành. Từ Bắc Thừa Thiên ra Bắc được chia thành 18 tỉnh. Năm sau
đó 1832, khi Lê Văn Duyệt mất, Gia Định thành cũng bị xóa bỏ, từ Nam Thứ Thiên
vào Nam được chia thành 12 tỉnh. Hệ thống hành chính được thiết lập theo đúng
mô hình nhà Thanh: đứng đầu các liên tỉnh là Tổng đốc (trừ Thanh Hóa đặt riêng
một Tổng đốc), vị trí tiếp sau là Tuần Phủ, phụ trách một tỉnh, bên dưới là hai
cơ quan Bố chính sứ ty phụ trách mọi việc ruộng đất, hộ tịch, thuế khóa…và Án
sát ty sứ phụ trách tư pháp an ninh, Tiếp đó, theo chế độ nhà Thanh, Minh Mệnh
với tay đến miền núi, đặt chế độ thổ ty, thổ tuy châu, thổ ty huyện và sau đó
là chế độ lưu quan. Các vùng dân tộc được phân chia theo diện tích ruộng đất và
số lượng dân đinh.
Như
vậy đây là lần thứ hai sau cuộc cải cách của Lê Thánh Tông, cả nước được nhất
thể hóa về mặt hành chính. Thách thức đặt ra về cơ bản đã được giải quyết. Có
nhiều người chỉ nhìn nhận cuộc cải cách hoàn toàn về mặt hành chính. Nhưng vấn
đề không đơn giản như vậy, nếu không tại sao năm 1833, trong lúc vui mừng, Minh
Mệnh đã nói với cận thần: “Duy ta nghĩ các hạt Bắc Kỳ (Bắc Hà cũ) năm trước
trộm cắp lan tràn, sau khi chia đặt qỉnh quan, ngày dần yên ổn”, tại sao các
Tổng đốc, Tuần Phủ Bắc kỳ ban đầu đều là võ quan cao cấp…và sau đó nam 1838,
khi nhận thấy quốc hiệu Đại Việt vẫn thông dụng, đặc biệt là Bắc kỳ, ông dã hạ
lệnh “từ nay về sau quố hiệu phải gọi là Đại Nam…quyết không được gọi lại hai
chữ Đại Việt”[12]. Mặc
dầu vậy, giải pháp cuối cùng của Minh Mệnh – cuộc cải cách hành chính địa
phương các năm 1831 – 1832 là một mốc son quan trọng trên con đường thống nhất
đất nước.
Trên đây chỉ là những thách thức
và giải pháp ban đầu, nhiều thách thức và giải pháp khác tiếp sẽ được tìm hiểu
No comments:
Post a Comment