Sunday, March 27, 2016

NHÀ NGUYỄN – THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP



GS. TRƯƠNG HỮU QUÝNH[1]

Tháng 6 năm Nhâm Tuất (7-1802), Vương triều Tây Sơn sụp đổ, Nguyễn Ánh đặt chân lên đất Thăng Long, trở thành người chủ của toàn bộ đất nước, từ Đàng Trong đến Đàng Ngoài. Xuất phát từ dòng họ chúa Nguyễn ở Đàng Trong, hôn hai mươi năm chiến đấu với tâm nguyện “nghĩa lớn kinh Xuân thu không gì lớn bằng trả thù” (Lời Hịch khi tiến quân ra Bắc Hà đánh Tây Sơn) sẵn sàng thực hiện phương châm “vì mục đích bất chấp biện pháp”, Nguyễn Ánh cùng các tướng lĩnh của mình không khỏi mang trong lòng đầy mặc cảm khi đối mặt với tình thế mới. Hàng loạt mâu thuẫn, thách thức đang đặt ra trước triều đình Nguyễn trong suốt nữa thế kỷ và có thể nói rằng, trong lịch sử dân tộc cũng như trong lịch sử thế giới, không một triều đại nào ra đời và tồn tại trong một bối cảnh đầy thách thức như vậy. Có thách thức tất phải có giải pháp và phải chăng thông qua những giải pháp mà các vua Nguyễn đã làm giới sử học có những nhìn nhận, đánh giá khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

1.      Thách thức thứ nhất:

Cuộc chiến tranh Nguyễn – Tây Sơn kết thúc với thắng lợi của lực lượng Nguyễn Ánh. Đất nước thống nhất lại dưới chủ quyền của một tập đoàn phong kiến duy nhất với điều tất yếu xảy ra là sự hình thành một nhà nước mới, một triều đại phong kiến mới thống trị toàn bộ đất nước, tương ứng với các triều đại Lý, Trần, Lê. Đối với Nguyễn Ánh rõ ràng đây là một thách thức lớn. Vì sao? Thách thức phải giải quyết nhưng giải quyết như thế nào và vào lúc nào để hoàn thành tâm nguyện vừa không gây đến những phản ứng, những biến động lớn ảnh hường đến thắng lợi vừa đạt được?
Hãy điểm lại sự việc. Ngay từ khi chuẩn bị xuất quân ra Bắc Hà, trong cuộc hội bàn với các tướng lĩnh thân cận. Nguyễn Ánh đã nói: “Bắc Hà là nước cũ của nhà Lê, từ khi liệt thánh ta xây dựng cơ nghiệp ở miền nam, hơn 200 vẫn theo chính sách nhà Lê. Gần đây, Tây Sơn trộm quyền, ta phải lo dụng binh chỉ là để phục thù mà thôi. Nay bờ cõi đã được khôi phục mà đầu xỏ giặc lại trốn ra Bắc…Vậy thì sau khi bắt được tội nhân rồi, đối với nhà Lê sẽ ra sao?”[2]. Nghĩa là theo Nguyễn Ánh, sự việc này gây nên hai điều mặt cảm: một là, dòng họ Nguyễn, tổ tiên của ông, vốn là cựu thần của nhà Lê, hai trăm năm trước tuy làm chủ đất Đàng Trong nhưng chưa từng là một vương triều hoàn toàn độc lập, dù cho bệc tiền bối Nguyễn Phúc Khoát có bước đầu khởi động. Xóa bỏ nhà Lê, thành lập một triều đại mới có phải là một việc hợp lòng người, nhất là đối với người Bắc Hà hay không? Những việc làm của họ Trịnh trước đây đâu phải là không để lại một bài học nào? Thứ hai, họp binh dấy nghĩa trong suốt mấy chục năm ở đất Gia Định “chỉ là để phục thù cho dòng họ mà thôi” chứ đâu phải với ý đồ giành quyền bá chủ thiên hạ. Vậy giờ dây, nếu đánh thắng Tây Sơn, lên ngôi, xưng đế, thì điều đó có trái với ý nguyện và mục đích ban đầu hay không? Thế gian sẽ nghĩ như thế nào?
Thấu hiểu tâm tư của chủ, một số triều thần đã viện đủ lý do: “Từ khi vua Lê chạy sang nước Thanh, đi không thấy trở lại, đất Bắc Hà đã lọt vào tay giặc Tây Sơn rồi. Huống chi, từ khi quân nhà vua (chỉ Nguyễn Ánh) lấy lại đô cũ đến nay, những tôi dân nhà Lê không một ai ứng nghĩa đánh giặc, thế nhà Lê không dấy lại được nữa đã có thể thấy rõ rồi. Nay ta diệt được giặc Tây Sơ, chiếm được đất đai, đó là ta lấy ở giặc Tây Sơn chứ không phải lấy ở nhà Lê… Nay ta đánh miền Bắc mà vẫn còn dùng niên hiệu nàh Lê e rằng người Bắc bảo ta mượn tiếng phù Lê, chi bằng cứ chính đế vị, đổi niên hiệu, bày tỏ đại nghĩa với thiên hạ, như thế thì được nước chính đáng, không ai dị nghị được [3]
Vốn là một người từng trải, nếm mật nằm gai, lăn lộn trong hơn hai mươi băm chiến tranh với Tây Sơn, Nguyễn Ánh yên lòng với sự ủng hộ của các tướng lĩnh thân cận, song vẫn tạm gác lại vấn đề lại. Đợi đến mấy ngày sau, khi phần đông triều thần chính thức tâu: “Cúi xin vương thượng…trên vâng ý Trời, dưới theo lòng dâ, sớm lên ngôi tôn, xuống chiếu đổi niên hiệu[4], Ngyễn Ánh mới dè dặt dáp lại: “Thành Gia Định vừa lấy lại, đã lên ngôi Vương vì lòng người đã tôn kính lâu rồi. Nay kinh đô cũ vừa mới khôi pục, mà giặc nướ chưa trừ xong, việc lên ngôi chưa thể bàn được. Duy vương giả đổi họ chịu mệnh …năm phải có hiệu cho nên đổi niên hiệu là phải”[5]
Và ngày mủng 1 tháng 5 năm Nhâm Tuất (31/5/1802) Nguyễn Ánh cho lập đàn ở An Ninh (Thừa Thiên) tế cáo đất trời, “đặt niên hiệu Gia Long)5. Nhưng đó chỉ là bước thứ nhất của giải pháp. Có người nghĩ rằng sở dĩ Nguyễn Ánh chỉ đổi niên hiệu, chưa xưng đế là vì sợ nhà Thanh nghi ngờ; hơn nữa, phải đến khi chính thức xưng Hoàng đế, Gia Long mới tự gọi là “Trẫm”. sự thực không phải như thế.
Vấn đề là ở chỗ, theo lễ giáo Nho gia, ngay cả việc Nguyễn Ánh đặt niên hiệu cũng không hợp lẽ. Vì niên hiệu là một tiêu chí pháp lý ghi nhận sự tồ tại của một ông vua, đứng đầu một quốc gia riêng biệt. Ở thời điểm này, lực lượng của Nguyễn Ánh mới chiếm lại được Phú Xuân, đô thành cũ của Đàng Trong thời các chúa Nguyễn. Dù được tôn làm Nguyễn Vương, Nguyễn Ánh vẫn chưa phải là một vua một nước, chưa có quyền đặt niên hiệu. Hơn nữa, trong thực tế, đất Bắc Hà còn nằm dưới quyền thống trị của vương triều Tây Sơn, thế lực của quân Nguyễn Ánh đang lên nhưng không có nghĩa là họ sẽ nhanh chóng đánh bại các lực lượng của Tây Sơn, hoàn toàn làm chủ  cả nước. Điều này có cơ sở thông qua các tư liệu về nữ tướng Bùi Thị Xuân. Không những thế, khi đem quân từ Phú Xuân đánh ra Bắc Hà lực lượng Nguyễn Ánh không thể xem vương triều Tây Sơn như một thế lực ngoại xâm để có thể làm theo cách của Nguyễn Huệ, lập đàn lên ngôi Hoàng đế, đặt niên iệu, khẳng định quyền làm chủ của một dân tộc độc lập, chỉ đạo cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Thanh. Nhìn lại xa hơn về trước, chúng ta cũng thấy Lê Lợi trên bước đường tiến quân từ Thanh Hóa ra Bắc đánh quân xâm lược Minh cũng chỉ xưng Bình Định Vương, không hề đặt niên hiệu (chỉ đặt sau khi lên ngôi Hoàng đế 1428)
Vậy tại sao, Nguyễn Ánh lại làm như vậy? Chắc chắn là một con người như Nguyễn Ánh không thể không biết những điều nói trên, cũng không thể không biết ngay cả những bậc tiền bối như Nguyễn Phúc Khoát cũng chưa dám đặt niên hiệu, nhưng vẫn phài “dè dặt” đặt niên hiệu. Có lẽ, ông muốn làm vừa lòng các tướng lĩnh thân cận, góp thêm sức và ý chí đánh bại Tây Sơn của họ. Đây là một chủ trương của Nguyễn Ánh, ví như sử sách lại, đâu phải ngẫu nhiên mà trước đó, ít nhất đã bốn lần ông hạ lệnh lập đền, truy tôn các tướng sĩ, binh đinh trận vong. Tất nhiên việc đặt niên hiệu cũng là sự thề hiện một thắng lợi mới của tâm nguyện cá nhân, vượt qua mục dích “phục thù Tây Sơn” ban đầu.
Bước thứ nhất hoàn thành, nhưng giải pháp vẫn chưa trọn vẹn cho đến lúc đã “lấy trọn đất An Nam mười bốn trấn”, lật đổ vương triều Tâ Sơn, hoàn thành ý nguyện “phục thù”, Nguyễn Ánh xa giá ra Thăng Long mà không làm gì ngoài việc từ đây, chính thức tự xưng “Trẫm” khi ban bố các điều lệnh.
Bước thứ hai chỉ được thực hiện vào năm 1806, nghĩa là 4 năm sau khi tình hình đất nước đã tạm ổn định, kinh đô Phú Xuân đã xây dựng xong, tên “Thăng Long” đã được đổi nghĩa. “Mùa hạ tháng 5 năm Bính Dần” Nguyễn vương chính thức “lên ngôi Hoàng đế ở điện Thái Hòa” xuống chiếu bố cáo trong ngoài”[6]
Và như vậy, sau bốn năm tròn, thách thức thứ nhất đã được giải quyết khá êm đẹp.

2. Thách thức thứ hai:

Vương triề Tây Sơn bị lật đổ. Đất nước đã hợp nhất lại sau 200 năm chia cắt, thậm chí đã có lúc đứng trước nguy cơ bị tách thành hai quốc gia riêng biệt. Hơn tám đời người đâu phải ngắn ngủi, dù cho tình cảm dòng họ gốc gác vẫn còn trong ký ức; vả lại, sau 200 năm tồn tại riêng biệt, dù xuất phát từ một nguồn, Đàng Trong đâu phải không có những nét chính trị, kinh tế, văn hóa khác biệt so với Đàng Ngoài. Như Nguyễn Ánh đã từng suy nghĩ “Bắc Hà là nước cũ của nhà Lê” sau hơn 10 năm dưới triều Tây Sơn đâu có làm thay đổi đáng kể, đặc biệt trong tư tưởng của các cựu thần nhà Lê, nho sĩ. Họ Nguyễn lại không như vương triều Tây Sơn, một sản phẩm của phong trào Tây Sơn. Chưa “chính đế vị” ngay vẫn là một việc có tính hình thức, vấn đề quan trọng hơn là giải quyết như thế nào về thể chế chính trị ở hai miền? Có nên nhập mhay hai miền làm một, có cùng thể chế, đặt dưới quyền của một triều đình Trung Ương hay không? Điều này đã khó nhưng khó hơn là nhân dân và sĩ phu Bắc Hà có sãn sàng chấp nhận hay không? Rõ ràng đây là một thách thức có ý nghĩa  lâu dài không chỉ đối với Gia Long mà còn cả đối với các vị vua kế nghiệp, nhất là Minh Mệnh.
Cũng theo tinh thần của vấn đề “chính đế vị”, đặt niên hiệu, Gia Long cùng các tướng lĩnh trung thành đã tìm giải pháp từng bước cho thách thức.
Bước thứ nhất, tháng 9 năm đó (Nhâm Tuất) khi sắp hồi loan về Phú Xuân, Gia Long đã hạ lệnh hợp mười một trấn phía bắc của Thanh Hóa, nơi “dân vật đều mới mà thành Thăng Long lại là nơi quan trọng của Bắc Hà”[7] làm Bắc thành, củ Nguyễn Văn Thành, một vị tướng vừa có công lớn vừa hiểu biết ít về chính trị, làm Tổng trấn. Nhà vua “ban cho sắc ấn, phàm những việc cất bãi quan lại, xử quyết kiện tụng đều được tùy tiện mà làm rồi mới tâu sau”, đặt ba tòa Hộ, Binh, Hình…theo tổng trấn xét biện công việc[8]. Với sự kiện này, Bắc thành trở thành một đơn vị hành chính tự trị, chỉ chịu sự chỉ đạo chung của vua ở Trung ương. Trong bối cảnh của đất nước đương thời, việc biến Bắc Hà thành một khu vực tự trị, dù đặt dưới một bộ máy quan lại triều Nguyễn, không thể không tạo điều kiện cho những hoạt động có ảnh hưởng đến nền thống trị chuyên chế của nhà nước Trung ương. Chắc chắn, một con người như Gia Long không thể không hiểu điều đó, nhưng tình thế bắt buộc, chưa thể làm khác được, vả lại đây chỉ là bước đầu, như sau này Minh Mệnh đã nhận xét: “quyền nghi tạm đặt, thánh minh lo xa vẫn muốn sửa lại.[9] Quả vậy, Gia Long sau đó đã từng bước ban hành một số biện pháp nhằm đảm bảo quyền lực tập trung của mình, như cho xây dựng lại hệ thống đường cái quan từ Nam ra Bắc, đặt hệ thống trạm dịch chuyển tấu, sớ, chiếu chỉ, năm 1804, nhất thể hóa bộ máy chính quyền ở các dinh Đàng Trong cũ thành trấn. Để tỏ ra không quá mặc cảm với đất ở Bắc Hà cũ, đồng thời như nhận xét của một vài nhà sử học, để tạo nên một đối trọng nhòm ngó Bắc thành giúp mình, năm 1808, Gia Long cho hợp nhất năm trấn cực Nam thành Gia Định thành, đặt chế độ tổng trấn tương tự như Bắc thành. Cũng theo các nhà sử học nói trên, năm 1813, khi đưa Lê Văn Duyệt lên làm tổng trấn Gia Định thay cho Nguyễn Văn Nhân, Gia Long đã thể hiện nỗi lo lắng của mình. Điều này càng rõ hơn khi Nguyễn Văn Thành bị vu oan làm phản và chịu tự tử để giữ toàn danh tiết, mặc dầu như sử cũ ghi lại là Gia Long đã rất đau xót vì quyết định của minh.
Nhưng bước thứ nhất cho đến khi Gia Long qua đời vẫn chưa kết thúc được. Người kế nghiệp là Minh Mệnh vẫn thường xuyên bị ám ảnh, đau đầu vì thách thức này, nhất là khi Nguyễn Văn Thành, Lê Chất chết, Lê Văn Duyệt tỏ ra không còn như trước nữa. Năm 1836, khi thành Quảng Bình vừa đắp xong, Minh Mệnh xa giá ra thăm và báo với các thị thần: “Một dải đường thành làm giới hạn Nam Bắc, xưa các vua thánh ta thấy họ Trịnh chuyên quyền làm bậy nên đặt thành ấy để giữ nước, không phải để chống nhà Lê. Hoàng Khảo thế tổ cao Hoàng đế ta trung hưng mà cả đất Việt, vẫn muốn sửa sang nhưng chưa kịp… Thành này là then khóa ở cửa Bắc nên sai trọng thần giữ, kinh binh đóng thú”[10] rồi sai cấp dinh lỵ Quảng Bình 230 cỗ súng lớn, 200 giáo dài và 200 súng tay có máy đá để bảo vệ thanh lũy (trong lúc đương thời Hà Nội có 150 cỗ súng lớn, Gia định có 70 cỗ, Hải Dương, Nam Định có 200 cỗ). Mặc cảm càng tăng thêm vì đây là thời gian mở rộng hoạt động của nghĩa quân Phan Bá Vanh, không thể dừng lại ở biện pháp nửa với được, Minh Mệnh đã thực hiện bước thứ hai của giải pháp.
Năm 1831, trong một cuộc đàm đạo với triều thần, Minh Mệnh đã theo đền nghị của họ “đến Minh, Thanh châm chước ngày càng kỹ… nên mô phỏng mà làm, tưởng cũng có lợi nhiều lắm”[11]. Trong mười lăm điều lợi mà họ nêu, có những điều như; “chấm dứt tình trạng phân quyền, tránh được mối lo “đuôi to khó vẫy”, huy động quân không phải qua thành, các hạt đều có trọng binh…”. Cuộc cải cách hành chính theo mô hình Minh Thanh bắt đầu ở Bắc thành. Từ Bắc Thừa Thiên ra Bắc được chia thành 18 tỉnh. Năm sau đó 1832, khi Lê Văn Duyệt mất, Gia Định thành cũng bị xóa bỏ, từ Nam Thứ Thiên vào Nam được chia thành 12 tỉnh. Hệ thống hành chính được thiết lập theo đúng mô hình nhà Thanh: đứng đầu các liên tỉnh là Tổng đốc (trừ Thanh Hóa đặt riêng một Tổng đốc), vị trí tiếp sau là Tuần Phủ, phụ trách một tỉnh, bên dưới là hai cơ quan Bố chính sứ ty phụ trách mọi việc ruộng đất, hộ tịch, thuế khóa…và Án sát ty sứ phụ trách tư pháp an ninh, Tiếp đó, theo chế độ nhà Thanh, Minh Mệnh với tay đến miền núi, đặt chế độ thổ ty, thổ tuy châu, thổ ty huyện và sau đó là chế độ lưu quan. Các vùng dân tộc được phân chia theo diện tích ruộng đất và số lượng dân đinh.
Như vậy đây là lần thứ hai sau cuộc cải cách của Lê Thánh Tông, cả nước được nhất thể hóa về mặt hành chính. Thách thức đặt ra về cơ bản đã được giải quyết. Có nhiều người chỉ nhìn nhận cuộc cải cách hoàn toàn về mặt hành chính. Nhưng vấn đề không đơn giản như vậy, nếu không tại sao năm 1833, trong lúc vui mừng, Minh Mệnh đã nói với cận thần: “Duy ta nghĩ các hạt Bắc Kỳ (Bắc Hà cũ) năm trước trộm cắp lan tràn, sau khi chia đặt qỉnh quan, ngày dần yên ổn”, tại sao các Tổng đốc, Tuần Phủ Bắc kỳ ban đầu đều là võ quan cao cấp…và sau đó nam 1838, khi nhận thấy quốc hiệu Đại Việt vẫn thông dụng, đặc biệt là Bắc kỳ, ông dã hạ lệnh “từ nay về sau quố hiệu phải gọi là Đại Nam…quyết không được gọi lại hai chữ Đại Việt”[12]. Mặc dầu vậy, giải pháp cuối cùng của Minh Mệnh – cuộc cải cách hành chính địa phương các năm 1831 – 1832 là một mốc son quan trọng trên con đường thống nhất đất nước.
Trên đây chỉ là những thách thức và giải pháp ban đầu, nhiều thách thức và giải pháp khác tiếp sẽ được tìm hiểu





[1] Khoa lịch sử - Đại học sư pham Hà Nội
[2] Đại Nam thực lục, tập III. NXB Sử học, Hn 1963, tr. 18
[3] Đại Nam thực lục, tập III. NXB Sử học, Hn 1963, tr 19
[4] Đại Nam thực lục, tập III. NXB Sử học, Hn 1963, tr 19
[5] Đại Nam thực lục, tập III. NXB Sử học, Hn 1963, tr. 20, 23
[6] Đại Nam thực lục, tập III. NXB Sử học, Hn 1963, tr . 281
[7] Đại Nam thực lục, tập III. NXB Sử học, Hn 1963, tr. 80
[8] Đại Nam thực lục, tập III. NXB Sử học, Hn 1963, tr. 80
[9] Đại Nam thực lục, tập III. NXB Sử học, Hn 1963, tr. 80
[10] Đại Nam thực lục, tập III. NXB Sử học, Hn 1963, tr. 45
[11] Đại Nam thực lục, tập III. NXB Sử học, Hn 1963, tr. 352
[12] Đại Nam thực lục, tập III. NXB Sử học, Hn 1963, tr. 317

Theo "Lịch sử nhà Nguyễn một cách tiếp cận mới"

No comments:

Post a Comment