Nhà thơ, tự Cán Thần, hiệu Trúc Vân, sinh 1862 tại làng Phú Thị, huyện
Đông Yên, tỉnh Hưng Yên (Châu Giang, Hải Hưng) trong một gia đình quan lại.
Thân phụ ông làm quan đến chức Ngự sử. Lúc nhỏ ông đã có tiếng là người thông
minh, học giỏi. Năm 18 tuổi ông đậu Tú tài, năm 24 tuổi đậu Giải Nguyên. Đến
khoa thi Nhâm Thìn (1892), đậu Tiến sĩ, lúc đó ông mới 30 tuổi. Sau khi đỗ, ông
được bổ làm Tri phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, rồi được thăng làm Án sát, trấn nhậm ở
các tỉnh Hưng Yên, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Hà Nam. Đương thời, Chu Mạnh Trinh nổi
tiếng là người hào hoa, phong nhã, cầm kỳ thi họa, thứ gì cũng giỏi, lại thích
ngao du sơn thủy. Năm 1902, lúc làm Án sát Hưng Yên, ông có dự cuộc thi Vịnh Kiều
do Lê Hoan, Tổng đốc tỉnh này tổ chức. Thanh
Tâm Tài Nhân thi tập gồm 20 bài thơ Nôm viết theo thể thất ngôn Đường luật
của ông dự thi đã được chấm giải nhất. Cảnh Thúy Kiều gặp Kim Trọng được ông vịnh:
“Dãy hoa nép mặt gương lồng bóng,
Ngàn liễu rung cương song gợn tình”
(Tổng vịnh Kiều)
Mặc dù được giải cao, nhưng người ta cho rằng trong những bài thơ dự thi
của Chu Mạnh Trinh cũng có những câu chưa được chỉnh lắm. Vì thế có giai thoại
cho rằng, khi chấm thơ của Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Khuyến*, một trong hai người
giám khảo cuộc thi, cho thơ của Chu Mạnh Trinh là khá. Nhưng khi đọc đến hai
câu thơ trong bài “Vịnh Sở Khanh” của Chu Mạnh Trinh:
Làng nho người cũng coi ra vẻ,
Bợm xỏ ai ngờ mắc phải tay!”
Nguyễn Khuyến không bằng long phê ngay vào bên cạnh bằng hai câu thơ:
“Rằng hay thì thật là hay
Đem “nho” đối “xỏ” lão này không ưa”.
Chuyện ấy lọt ra ngoài làng nho, khiến ai cũng lấy đó làm một giai thoại
để giễu họ Chu. Chu Mạnh Trinh lấy làm giận lắm, nên nhân dịp Tết đến cho người
đem biếu Nguyễn Khuyến một chậu hoa trà với ngầm ý khá thâm, vì hoa trà là loài
hoa chỉ có sắc chứ không có hương, mà Nguyễn Khuyến lúc đó đã lòa rồi thì sao
có thể thưởng thức được vẻ đẹp của hoa. Hiểu được thâm ý đó, Nguyễn Khuyến đã
làm bài thơ gửi lại Chu Mạnh Trinh, trong đó có câu:
“… Da mồi tóc bạc, ta già nhỉ,
Áo tía đai vàng, bác đó a?...”
Chu Mạnh Trinh đọc xong thơ vừa thẹn vừa ân hận. Ngoài tập thoe trên,
Chu Mạnh Trinh còn có Trúc Vân thi tập và một số bài cảm tác ngâm vịnh về phong
cảnh Hương Tích. Trong Hương Sơn phong cảnh
với thể thơ bảy chữ mang giai điệu của một bài hát nói, người ta thấy ở đây cảnh
thiên nhiên, mối hoài cổ đến thoát tục của ông:
“Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái,
Lững lờ khe Yến cá nghe kinh
Thoảng bên tai một tiếng chày kình
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng”
Ở Hương Sơn nhật trình ca, Chu
Mạnh Trinh lại tỏ tài thơ của ông trong việc sáng tác theo lối đại chúng bằng
những vần thơ lục bát:
“Bầu trời bát ngát xa trông
Biết đâu nước Nhược non Bồng là đâu”
Ngoài tài thi phú, Chu Mạnh Trinh còn ham mê và giỏi cả nghề kiến trúc.
Ông đã từng vẽ kiểu và trùng tu chùa Thiên Trù (Chùa Ngoài) ở Hương Tích. Năm
1903, vì bị bệnh, ông cáo quan lui về sống ẩn dật. Hai năm sau (1905) ông mất
giữa cái tuổi của tài hoa đang nở rộ.
V.H.L.
Theo "Những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam", Tôn Nữ Quỳnh Trân (CB), NXB Văn hóa thông tin, NXB 1993
No comments:
Post a Comment