Nhà
thơ, tự Chu Thần, hiệu là Mẫn Hiên, Cúc Đường, người làng Phú Thị, huyện Gia
Lâm, Bắc Ninh (ngoại thành Hà Nội), sinh trưởng trong gia đình cự tộc, dòng họ
nối đời khoa hoạn. Cao Bá Quát cùng người anh song sinh là Cao Bá Đạt, nổi tiếng
thông minh, học giỏi từ nhỏ. Thân sinh của Quát và Đạt là Cao Cửu Chiếu, một
nhà Nho hay chữ, có ước vọng khi lớn lên, các con mình sẽ trở thành quan đại thần
của triều đình nên lấy tên của hai hiền sĩ đời Chu cũng là hai anh em song sinh
để đặt tên cho hai con.
Ngay
từ lúc ấu thơ, Cao Bá Quát đã có giọng văn hùng hồn, ý tứ mạnh mẽ, thể hiện ý
chí ngang tàng của kẻ tài hoa và đồng thời là người rất kiêu ngạo. Lưu truyền rằng
Quát thường nói: “Trong thiên hạ có bốn bồ chữ, mình tôi chiếm hai bồ, anh tôi
và bạn tôi, Nguyễn Văn Siêu, chiếm một bồ, còn bồ thứ tư chia cho mọi kẻ khác”.
Khi theo học ở trường Bắc Ninh thì danh tiếng của Cao Bá Quát đã lẫy lừng.
Năm
1832 Quát thi Hương, đỗ Á nguyên tại trường thi Hà Nội, sau đó về kinh đô thi Hội
nhưng thi mãi không đỗ. (Theo nhiều nguồn tài liệu, Quát không phải thiếu tài,
nhưng do các quan trường truyền nhau cho rằng Quát ngông ngạo nên đánh hỏng).
Năm 1841 nhờ sự tiến cử của quan tỉnh Bắc Ninh, Cao Bá Quát được vào Kinh đô nhậm
chức Hành tẩu Bộ Lễ. Tuy làm quan, cuộc sống của ông cũng hàn vi, không thay đổi.
Tháng 8.1841 Cao Bá Quát được cử làm Sơ khảo trường thi Thừa Thiên, thấy một số
bài thi hay nhưng phạm húy, ông cùng người bạn lấy muội đèn chữa giúp. Việc bị
phát giác, đáng lẽ Cao Bá Quát bị xử chém, nhưng sau được xét lại chỉ bị cách
chức, tù ba năm, phát phối đi Đà Nẵng, Về sau, nhân có Đào Tri Phú đi sữ sang
Giang Lưu Ba (Indonesia), Cao Bá Quát được tha và cử theo phái đoàn phụ tá công
việc. Trở về nước ông được phục chức cũ, một thời gian rồi bị thải. Năm 1847
Cao Bá Quát được gọi vào làm việc ở Viện Hàn Lâm, sưu tầm văn thơ. Hồi ấy Tùng
Thiện Công lập ra “Mạc Vân thi xã”, được nhiều quan văn trong triều tham gia,
hưởng ứng. Giai thoại kể rằng có lần Cao Bá Quát được xem những bài thơ của hội
viên Mạc Vân thi xã đã lắc đầu, bịt mũi ngâm:
“Ngán thay cái mũi vô duyên
Câu thơ thi xã con thuyền Nghệ
An”.
(ví
thơ của thi xã như mùi nước mắm Nghệ An, ngửi không vô). Hai vị công khanh Tùng
Thiện Công*, tuy Lý Công chẳng những không giận vì thái độ ngạo mạn của Cao Bá
Quát mà còn nhún mình đến kết giao vì cho rằng ông có tài. Thấy nhà Cao Bá Quát
thanh bần, hai vị còn giúp đỡ vậy chất. Cảm kích thái độ của hai vị công khanh,
Cao Bá Quát gia nhập Mạc Vân thi xã. Trong thời gian này ông đã xướng họa nhiều
bài thơ hay nổi tiếng, đến nỗi vua Tự Đức, một người gỏi và chuộng văn chương
phải khen ngợi văn tài của Cao Bá Quát là một trong bốn tay cự phách của Mạc
Văn thi xã.
“Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán
Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường”
(Văn
của Nguyễn Văn Siêu*, Cao Bá Quát có thể hơn thời tiền Hán, thơ của Tùng Thiện
Vương, Tuy Lý Vương lấn át ngay cả thơ đời thịnh Đường). Con người đương thời
thì tôn gọi ông là Thánh Quát. Vì tánh tình khinh miệt, châm biếm ua và triều
đình nên Cao Bá Quát bị đẩy khỏi Kinh đô (1850) ra làm giáo thụ ở Quốc Oai, Sơn
Tây, một vùng heo hút, nghèo nàn. Tại dây, Cao Bá Quát nhận chức Quốc su cho Lê
Duy Cự, một người thuộc dòng dõi nhà Lê, nổi lên chống triều đình Nguyễn vào
năm 1854. Trên lá cờ của quân nổi dậy (thường được gọi là giặc Châu Chấu) ghi
hai dòng chữ lớn:
“Bình Dương, Đồ Bàn vô Nghiêu Thuấn
Mục Dã, Minh Điều hữu Võ, Thang”
(Ở
Bình Dương và Đồ Bàn không có những ông vua tốt như Nghiêu, Thuấn, thì ở Mục
Dã, Minh Điều phải có những người chống lại như Võ, Thang). Thoạt đầu, cuộc khởi
nghĩa nổi lên ở Mỹ Lương, đánh phá các hạt thuộc Sơn Tây, Nam Định thu nhiều thắng
lợi, nhưng chỉ ít tháng thì bị quân triều đình đánh tan. Theo “Thực lục chính biên” Cao Bá Quát bị
viên đội Đinh Thế Quang bắn chết trong trận đánh. Còn nhiều nguồn tài liệu khác
cho rằng Cao Bá Quát bị bắt giải về kinh đô và bị chém đầu, trước khi chết còn
đọc thơ. Vua Tự Đức ra lệnh tru di tam tộc dòng họ Cao, các tác phẩm của Cao Bá
Quát đều bị nhà Nguyễn cấm tàng trữ, bị thu hồi và đốt. Tuy nhiên, cho đến nay,
sáng tác của Cao Bá Quát được sưu tầm đến trên một nghìn bài gồm chữ Hán lẫn chữ
Nôm. Tác phẩm chữ Hán gồm các tập: Cao Bá
Quát thi tập, Cao Chu Thần di cảo, Cao Chu Thần thi tập, Mẫn Hiên thi tập...
Còn tác phẩm chữ Nôm gồm một số bài ca trù, thơ đường luật và bài phú nổi tiếng:
Tài tử đa cùng.
Các
tác phẩm của Cao Bá Quát thể hiện rõ thực trạng của xã hội đương thời, trong đó
phản ánh khá cụ thể cuộc sống của những người lao động (mất mùa, sưu cao thuế nặng,
đói khát, đi phu, đi lính, đi xin phát chẩn v.v...) và thể hiện niềm ước mong
xã hội được thay đổi, ví dụ trong bài “Văn
hà mô”: “Hà mô vi dân hồ? Nhất thanh khởi thâm mãng. Nhĩ minh hà trì trì. Tạc dạ
vọng kỳ vũ”. (Ễnh ương có biết vì dân không? Kêu vang nơi bụi rậm. Sao mi
kêu quá chậm. Đêm qua bao người hồi hợp mong mưa).
Y.T.
Theo "Những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam", Tôn Nữ Quỳnh Trân (CB), NXB Văn hóa thông tin, NXB 1993
No comments:
Post a Comment