Wednesday, March 23, 2016

ĐÀO DUY TỪ (1572 – 1634)

Khai quốc công thần nhà Nguyễn, người làng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Cha là Đào Tá Hán làm Quản giáp nghề ca hát, sau thăng chức Linh quan, coi đội nữ nhạc trong đại nội dưới triều vua Lê Anh Tông.
Đào Duy Từ vốn thông minh, học rộng, biết nhiều, sở trường thơ văn lại còn tinh thông lý số và binh pháp. Năm 1592, gặp lúc Trịnh Tùng mở kỳ thi Hương, ông nộp quyển xin ứng thí nhưng theo luật thời đó, con nhà hát xướng không được thi. Ông về nhà, vẫn tiếp tục theo đuổi việc học hành chứ không nản chí. Sau khi cha mẹ mất, ông lên Đông Kinh (Hà Nội) vào học trường Chiêu Văn Quán. Đào Duy Từ nhận thấy mình ở đất Trịnh cũng không thể nào tiến thân được, nên bỏ vào Nam tìm đường gây dựng sự nghiệp. Đến phủ Hoài Nhơn (Tức Bồng Sơn – Bình Định) ông ở chăn trâu cho một điền chủ có tiếng ở thôn Tùng Châu. Một hôm, nhân chủ nhà có tiệc, nhiều danh sĩ trong vùng đến uống rượu làm thơ. Đào Duy Từ dự thính và gặp dịp cũng ứng đối hoạt bát, tỏ ra là người học rộng biết nhiều. Nhà điền chủ rất ngạc nhiên, tỏ lòng mến phục và tiến cử cùng Khâm lý Trần Đức Hòa, ông được Hòa gả con gái cho đoạn tiến cử với Chúa Sãi (Nguyễn Phúc Nguyên). Chúa Sãi biết mình gặp người tài, phong làm Nha úy Nội tán (1627), quản lý cả việc quân cơ trong ngoài. Từ đó, Đào Duy Từ thường cùng chúa Nguyễn bàn bạc việc quốc chính. Trong tám năm làm quan ở Đàng Trong, Đào Duy Từ đã bày mưu tính kế, xây lũy đắp thành, luyện quân tuyển tướng, giữ đấ chống mệnh vua Lê, không chịu nạp cống phú, góp phần đắc lực vào việc xây dựng cơ đồ Chúa Nguyễn. Chính ông là người đắp hai rặng lũy Trường Dục và Nhật Lệ (Quảng Bình). Lũy Trường Dực đắp năm 1629 đến 1630 thì xong, dài khoảng 10km, chân rộng 6m, cao 3m, kéo dài từ chân núi chùa Non đến làng Quảng Xá. Đứng trên cao nhìn xuống guống hình chữ hồi (…) nên được gọi là Hồi văn. Lũy Nhật Lệ (1631) cao 6m, dài 12km, chạy từ cửa biển Nhật Lệ, mem theo hai sông Lệ Kỳ và sông Nhật rồi tiến dài ra đến làng Động Hải (Đồng Hới). Lũy này rất kiên cố, xen kẽ còn có các pháo đài, chòi canh, là nơi hiểm yếu ngăn trong Nam ngoài Bắc, tục còn gọi là Lũy Thầy hay Sư Lũy ngụ ý tôn bậc thầy. Đào Duy Từ cũng có hiến kế cho chúa Sãi trả lại sắc thư cho vua Lê, thư đặt trong một mâm đồng hai đáy cùng với tấm thiếp đề bốn hang chữ, giải ra là bốn chữ “Dư bất thụ sắc” (nghĩa là: ta không nhận sắc phong”.
Ngoài Bắc, chúa Trinh dò tin tức biết rõ Đào Duy Từ là quân sư của chúa Sãi, rất hối tiếc, nhiều lần cho người mang phẩm vật vào cầu dụ Đào Duy Từ, nhưng lần nào cũng thất bại. Tương truyền, có lần ông đã mượn lời bài thơ người con gái tạ lại bạn tình để trả lời:
“Ba đồng một miếng trầu cay
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?...
hoặc hai câu thơ tỏ lòng dứt khoát:
Có lòng xin tạ ơn lòng
Đừng đi lại nữa mà chồng em ghen.
Đào Duy Từ bệnh mất ngày 17.10.1634, lúc ông 63 tuổi, được chúa Nguyễn phong tặng tước Lộc Khê Hầu, lập đền thờ tại thôn Tùng Châu, Bồng Sơn, Bình Định. Về sau, vua Gia Long xét lại công trạng ông, cho tòng tự tại Thái Miếu. Minh Mạng lại truy tặng là bậc Khai quốc công thần.
Về sự nghiệp văn chương, ngoài hai bản trường thi nổi tiếng viết bằng chữ Nôm là Ngọa Long Cương vãnTư dung vãn, ông còn là tác giả của nhiều bài vè, bài hát về những vùng đất mới khai phá, nhưng đều bị thất truyền cả. Về biên khảo, ông còn để lại tập “Hổ trướng khu cơ” là bộ binh thư quân pháp viết bằng chữ Hán. Tương truyền, khi vào Đàng Trong, ở Tùng Châu ông đã mang nghệ thuật hát bộ gia truyền dạy cho dân địa phương, và là người khởi thảo vở tuồng cổ “Sơn Hậu’.

Th.N.

Theo "Những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam", Tôn Nữ Quỳnh Trân (CB), NXB Văn hóa thông tin, NXB 1993

No comments:

Post a Comment