Tuesday, March 29, 2016

VỀ TRIỀU NGUYỄN TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM MỘT SỐ VẤN ĐỀ BÀN THÊM

GS. LƯƠNG NINH¯

            Có một số công trình nghiên cứu đặt vấn đề xem xét, đánh giá công tội, tốt xấu đối với vương triều cuối cùng của lịch sử VIệt Nam theo cách gộp chung như tên gọi vương triều và cho cả vương triều.
            Dường như người ta chưa bao giờ bằng lòng và chưa tự bằng lòng khi phải bình xét như thế đối với triều Nguyễn.
            Tôi không nghĩ rằng sẽ không bao giờ có thể bằng lòng hay tự bằng lòng khi phải xem xét gộp như thế.
            Một vương triều và là vương triều phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam gồm 13 vua kéo dài 143 năm, không phải là nhiều nhưng cũng không phải là ít, nên rõ ràng nó không phải thuần nhất từ đầu chí cuối. Theo tôi có thể chia ra làm 5 giai đoạn khác nhau.

1. Thời Gia Long (1802 – 1819) với hai mặt tốt xấu, công tội tương phản nhau rất rõ rệt đến nỗi rất khó mà nói mặt nào nhiều, nặng hơn.

            Là người cuối cùng còn xót lại của một dòng họ đã trải qua 10 đời từ 1533 đến 1778 đã từng xưng vương, bị truy đuổi, chạy long đong, nhưng nhìn thấy đối phương là nhà Tây Sơn có sự chia rẽ nội bộ và sự yếu kém của người em út trấn trị miền Nam, Nguyễn Ánh đã nuôi chí giành lại quyền.
            Ông đã không phân vân trước bất cứ một thủ đoạn nào, biện pháp nào, kể cả cầu viện ngoại bang, hết Xiêm đến Pháp, bằng bất kỳ biện pháp nào, kể cả đem quân về lãnh thổ nước nhà để đánh giúp, cả gửi người con làm con tin, cầu viện, bỏ qua lời can của bà quý Phi Yến ,đã đẩy hại bà chết trên Côn Đảo.
            Không thể biện hộ rằng đã chống nhau thì có thể dùng bất cứ thủ đoạn nào để chiến thắng. Cái tư cách như thế, đứng trên tâm thế của người Việt Nam, không ai có thể tán đồng, dù chỉ là một điểm nào. Cuối cùng, Nguyễn Ánh đã giành thắng lợi, lên ngôi vua, lấy hiệu Gia Long, không phải bởi sự chi viện của quân Xiêm, không phải bởi sự giúp đỡ, can thiệp của người Pháp, mà bởi triều Tây Sơn không tự đứng vững sau khi vua Quang Trung qua đời đột ngột. Gia Long lên ngôi, bước đầu tổ chức bộ máy cai quản thống nhất toàn bộ lãnh thổ đã có tiền đề từ các thời trước, triều đại trước, đã tìm cách bảo vệ nền tự chủ và quyền của vương triều, tránh khỏi sự ảnh hưởng và sự chi phối của ngoại bang do quá khứ để lại. Xác định sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền quốc gia là cố gắng và hoạt động đầu tiên đáng ghi nhận của Gia Long. Tuy nhiên, cũng không thể không nói đến việc sau khi đã giành được thắng lợi, Gia Log đã trả thù đối thủ cũ của mình, những người của triều Tây Sơn, một cách vô cùng nhỏ nhen và tàn bạo khiến cho hậu thế kho6g thể chấp nhận tư cách của một vị vua sáng lập vương triều.

2. Giai đoạn 2 gồm 3 vua: Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức từ năm 1820 đến 1883

            Có thể gọi chung đây là giai đoạn thử thách và cố gắng củng cố vương triều. Tuy nhiên ba đời vua này cũng có sự phát triển và tính chất khác nahu:
            Minh Mệnh (1820-1840) thể hiện rõ tính chất chung của giai đoạn, là ông vua được học hành, giáo dục cẩn thận, khởi xướng sự phát triển của văn hóa, văn học, sử học, chú ý giữ gìn đạo đức, ý thức trách nhiệm của người cầm quyền; khởi xướng việc cải tổ bộ máy hành chính và cai quản lãnh thổ qua nghiên cứu cẩn thận, kế thừa hợp lý nên vẫn còn giữ được giá trị tham khảo cho công việc điều hành lãnh thổ đến ngày nay, sau gần 200 năm. Có thể nói ông làm được nhiều việc đáng khen trên trách nhiệm của một nhà nho học, nhà văn hóa, nhà quản lý.
            Nhưng thời của ông gặp ba thử thách đối ngoại hết sức nặng nề, đó là vụ đụng độ với Xiêm vế vấn đề Lan xang (Lào), lại đụng độ với Xiêm, ác liệt hơn về vấn đề Campuchia, vụ đụng độ với người châu Âu và việc truyền bá đạo Kitô cùng với một chuỗi thử thách về tình trạng kinh tế và xã hội trong nước. Cả 4 vụ dường như vượt quá tầm tay của ông, và vì thế ông đều mắc sai lầm nghiêm trọng, để lại hệ quả nặng nề cho đất nước và cho các vua sau.
            a) Vụ Chậu Anụ,người anh hùng dân tộc Lào cầu cứu (1828) do bị Xiêm đánh, triều đình bàn luận rất hăng nhưng thái độ của Minh Mệnh là tránh né, buông xuôi nên Anụ bị bắt, bị chết, nước Lào bị Xiêm biế thành một tỉnh (1831). Thái độ gần như thờ ơ, bỏ mặc này thật đáng tiếc, đáng trách.
            b) Vụ Ang Mây ở Campuchia xảy ra sau 6 năm là một thử thách quyết liệt hơn nữa. Sự tranh chấp giữa triều đình Xiên và Nguyễn về vấn đề Campuchia diễn ra từ lâu, từ 1767 đến khi vua Ang Chan lên ngôi ở Cmpuchia năm 1806 rồi ốm chết năm 1834, triều đình Nguyễn ủng hộ cho con gái Ang Chan là Ang Mây lên ngôi, lại đặt Trấn Tây thành để ủng hộ cho nữ vương mới. Cuộc chiến tranh thực sự đã nổ ra; ủng hộ và giúp đỡ Ang Mây là cần và đúng nhưng rồi lại đặt chế độ “bảo hộ” cùng với quân đồn trú là sai, nên hệ quả là phải tham chiến với Xiêm thật là tai hại. Cả hai bên Xiêm-Việt dường như đã vét đến người cuối cùng và đồng tiền cuối cùng để lao vào cuộc chiến. Vua Minh Mệnh quyết không chịu lui quân, mặc dù đã có sự can gián khẩn thiết của các trọng thần như Nguyễn Công Trứ, Phan Thanh Giản, Lê Minh Đức. Chỉ đến khi cả hai bên không ai thắng ai thì mới chấp nhận “hòa” (năm 1847) tức là năm cuối cùng đời vua Thiệu Trị. Đây là một chính sách vô cùng hao tài tốn của, không hiệu quả vắt kiệt sức dân sức nước.
            c) Vụ cấm đạo được thực hiện một cách kiên quyết trong suốt 3 đời vua; trước sau có tới 16 đạo dụ và nhiều điều lệ cấm truyền bá đạo Kitô, thậm chí bắt bỏ, đàn áp, hành hình. Đánh giá việc này rất phức tạp “Đúng hay sai, nên hay không nên?”, “Có lúc, có trường hợp nó gắn với ngoại bang hay không gắn?” Ở đây, theo tôi có hai mặt của vấn đề văn hóa, không phải vấn đề ngoại bang.
            Kitô giáo, cũng như Islam là tôn giáo nhất thần, tôn sung và chủ trương phục tùng tuyệt đối vị thần tối cao duy nhất, chỉ có một cây thập tự nhỏ, treo thờ tượng trưng, không có và không chấp nhận thờ tượng, bàn thờ, bát hương, linh thú, linh điểu, rượu thịt, ăn uống sau thờ cúng. Ngược lại những người theo nho học là một hệ tư tưởng hơn là một tôn giáo, mang tính duy lý, ít nhiều phủ nhận điều huyễn hoặc phi lý, lại đã trải qua hang nghìn năm “theo đạo” thờ cúng tổ tiên, mà tổ tiên là ông bà, là người thì phải cúng, có ăn uống như người thực sự đang sống. Ở đây nhiều cách lý giải việc này nhưng theo tôi, chê bên này một ít, trách bên kia một điều không đúng. Ngày nay, đã trải qua hơn trăm năm nhưng người Việt theo Kitô giáo sống trong long dân tộc đã có sự dung hòa hợp lý: kết hợp kính Chúa và yêu nước; nhiều người vừa đi lễ nhà thờ cúng tổ tiên, ở nhà có bàn thờ, bát hương. Đó là quyền tự do của mỗi người. Một thực tế lịch sử đã xảy ra làm xáo động xã hội và không thể không làm lao đao triều đình nhà Nguyễn.
            d) Nhưng làm lao đao hơn nhiều chính là sự việc xảy ra ở bên trong. Nhiều năm mất mùa, nhà nước lại đánh thuế cao để bù chi phí chiến tranh, dân đói to, bất bình nỗi dậy chống lại từ địa phương đến triều đình Trung ương. Trong khoảng 50 năm với khoảng 300 cuộc khởi nghĩa nông dân, trong đó có 8 cuộc có tên tuổi, kéo khá dài. Triều đình có thể có một biện pháp đàn áp, tức là lại tiến hành những cuộc chiến tranh lớn nhỏ nhưng lại để chống lại chính nhân dân của mình.
            Cho nên, có thể nói đến Thiệu Trị còn cố cưỡng lại trước những thử thách, thì đến Tự Đức (1848 – 1883) hầu như chịu bó tay, buông xuôi. Ông vua này lại ở ngôi quá lâu, 35 năm mà 20 năm cuối (1862 – 1883) diễn ra cảnh thực dân Pháp xâm chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Bộ đến cả nước.
            Có tác giả nêu lên vấn đề tại sao một dân tộc từng đánh bại nhanh chóng hang chục vạn quân Nguyên, hang chục vạn quân Thanh lại tỏ ra hoàn toàn thụ động trước mấy nghìn quâ Pháp, có nơi chỉ mấy chục? Lý do đói kém không đủ giải thích, lý do ưu thế vũ khí thực tế cho thấy có thể khắc phục được bằng phục kích, đột kích và số đông. Bằng cứ là sau đó là nhân dân tự động tổ chức kháng chiến, tập kích từng trận có hiệu quả nhưng không giành được thắng lợi vì thiếu một tổ chức chung. Lý do chủ yếu có lẻ là sự khủng hoảng niềm tin, sự mất phương hướng hoàn toàn, đã có thể đẩy một dân tộc anh hung phải chán chường thụ động, quay lưng lại thực tế đau long “rằng quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu” (Tam nguyên Nguyễn Khuyến). Trước nũa cả khi quân Pháp tấn công, đã có tâm trạng “Trải qua một cuộc bể dâu, những điều trông thấy mà đau đớn long” (Nguyễn Du). Chẳng còn điều gì để nói về Tự Đức nữa.
3. Giai đoạn 3 có 5 vua trong 5 năm (1883 – 1888).
Là sự thay đổi ngôi đến chóng mặt, hoàn toàn theo sự dàn cảnh của thực dân Pháp. Tuy vua Hàm Nghi nằm trong số 5 vua nhưng không thể xếp cùng trong hệ thống này.

4. Vua Hàm Nghi mở đầu cho giai đoạn 4.

            Không thể thừa nhận chế độ bù nhìn cùng với chiếu Cần Vương là sự phản ứng khí phách bất khuất của một dân tộc anh hung chống lại chế độ cai trị đã được thiết lập, nhưng ở thế yếu ớt, bị động, lẻ tẻ.
            Tiếp theo là hai vua Thành Thái (1889 – 19907) và vua Duy Tân (1907 – 1916). Hai ông vua này được giáo dục thấm đượm tinh thần văn hóa truyền thống, nên mặc dù trong hoàn cảnh đã bị chính quyền thực dân hoàn toàn khống chế và o ép, vẫn kiên cường tỏ thái độ chống lại: phản kháng kiên quyết nên thà bị bắt, bị đi đày đảo xa còn hơn giữ ngai vàng bù nhìn, chịu khổ ải thân mình còn hơn chấp nhận phận nô lệ của nhân dân. Hành động của ba vua này đáng là niềm tự hào vĩ đại cho cả vương triều có không ít sai lầm và khuyết điểm này, là niềm an ủi  rất lớn cho truyền thống bất khuất của dân ta, là ngọn đèn còn được thắp sang trong đêm đen.

            5. Giai đoạn cuối cùng gồm 2 vua Khải Định và Bảo Đại kéo dài khá lâu (1916 – 1945) nhưng hoàn toàn do thực dân Pháp tạo dựng theo kiểu mẫu của Pháp, theo yêu cầu của thực dân Pháp. Thiết nghĩ cũng không cần để công chê trách làm gì, nó như thế không thể khác. Làm vua, có quần thần nghi vệ nhưng không thể trị vì, làm vua thật, thì chẳng nhẽ suốt ngày ngồi nghĩ ngợi mà nghĩ cái gì, thì tốt hết là đi săn bắn, đánh bài, tiệc tùng nhảy đầm, lâu thành thói quen, thành nếp kh6ng bỏ được. Vua thích thú mà người Pháp cũng hài long.
            Cách mạng nhân dân nổ ra, nghe nói Bảo Đại khá tự nguyện thoái vị, thực sự bằng long làm dân nước tự do và khá thích thú làm cố vấn chính phủ nhưng ông không thể làm và quen làm việc thực. Điều ông quen và thích là các thú ăn chơi. Hồ chủ tịch hiểu điều này hơn ai hết, nên nếu giữ không được thì nên để cho ông đi. Nay thì chúng ta hãy để cho ông được “Tây phương cực lạc”.
            Vương triều phong kiến cuối cùng hình thành trong điều kiện lịch sử đất nước, lịch sử vùng và lịch sử thế giới như con thuyền đi trên biển, trong going bão, tuy đầy tham vọng nhưng thuyền nhỏ mà tay lái kém; không biết bơi nên nó đã chìm. Nhưng nhân dân không chìm cùng với nó. Nhân dân đã tập bơi, tự bơi và đã đến bờ.
            Nhìn chung con thuyền cũ của mình, thương nó, nó cũ quá và đã chìm mất rồi. Con thuyền cũ của mình – đó là vấn đề tôi đặt đặt ra để suy nghĩ và lạm bàn.




¯ Đại học Quốc gia Hà Nội

ĐẶNG ĐỨC SIÊU (1750 – 1810)

Nhà thơ, quan đại thần triều Nguyễn, còn có tên Đặng Đức Chiêu, quê ở huyện Bồng Sơn, phủ Hoài Nhơn (Bình Định). Thuở nhỏ trọ học ở Hương Trà, Thừa Thiên. Năm 16 tuổi Đặng Đức Siêu thi đỗ Hương Tiến vào thời Định vương Nguyễn Phúc Thuần (1765 – 1777), làm quan tại Viện Hàn Lâm ở kinh đô Phú Xuân. Nhà Trịnh và sau đó là nhà Tây Sơn khi chiếm Phú Xuân đều mời Đặng Đức Siêu ra làm quan, song ông vẫn luôn khước từ, bỏ ra Long Hồ mở trường dạy học, làm thơ văn. Khi hay tin Nguyễn Ánh khởi binh ở Gia Định vào năm 1798, ông theo vào. Trong suốt thời gian Nguyễn Ánh chống Tây Sơn, Đặng Đức Siêu chuyên giữ việc từ lệnh, đặt điển lệ và triều nghi. Sau khi lên ngôi, vua Gia Long cử Đặng Đức Siêu giữ chức Hoàng tử phụ đạo trong cung, sau đó thăng đến chức Thượng thư Bộ Lễ.
Đặng Đức Siêu nổ tiếng là người văn chương tao nhã, chải chuốt. Tác phẩm của ông rất nhiều như Thương Sơn tứ hiệu, Trương Lương trùy, Tô Vũ tiết, Tự tỉ quản nhạc, Văn tế Phò mã Chưởng hậu quân Võ Tánh và lễ bộ thượng thư Ngô Tùng Châu, Văn tế Đức thầy Bá Đa Lộc, Hồi loan khải ca (Hồi loan cửu ca khúc) v.v… Đặc biệt, Đặng Đức Siêu còn là tác giả biên soạn quyển sử “Thiên Nam thế hệ”, chép từu đời Nguyễn Kim đến đời Định vương nguyễn Phúc Thuần.

Y.T.


Sunday, March 27, 2016

NHÀ NGUYỄN – THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP



GS. TRƯƠNG HỮU QUÝNH[1]

Tháng 6 năm Nhâm Tuất (7-1802), Vương triều Tây Sơn sụp đổ, Nguyễn Ánh đặt chân lên đất Thăng Long, trở thành người chủ của toàn bộ đất nước, từ Đàng Trong đến Đàng Ngoài. Xuất phát từ dòng họ chúa Nguyễn ở Đàng Trong, hôn hai mươi năm chiến đấu với tâm nguyện “nghĩa lớn kinh Xuân thu không gì lớn bằng trả thù” (Lời Hịch khi tiến quân ra Bắc Hà đánh Tây Sơn) sẵn sàng thực hiện phương châm “vì mục đích bất chấp biện pháp”, Nguyễn Ánh cùng các tướng lĩnh của mình không khỏi mang trong lòng đầy mặc cảm khi đối mặt với tình thế mới. Hàng loạt mâu thuẫn, thách thức đang đặt ra trước triều đình Nguyễn trong suốt nữa thế kỷ và có thể nói rằng, trong lịch sử dân tộc cũng như trong lịch sử thế giới, không một triều đại nào ra đời và tồn tại trong một bối cảnh đầy thách thức như vậy. Có thách thức tất phải có giải pháp và phải chăng thông qua những giải pháp mà các vua Nguyễn đã làm giới sử học có những nhìn nhận, đánh giá khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

1.      Thách thức thứ nhất:

Cuộc chiến tranh Nguyễn – Tây Sơn kết thúc với thắng lợi của lực lượng Nguyễn Ánh. Đất nước thống nhất lại dưới chủ quyền của một tập đoàn phong kiến duy nhất với điều tất yếu xảy ra là sự hình thành một nhà nước mới, một triều đại phong kiến mới thống trị toàn bộ đất nước, tương ứng với các triều đại Lý, Trần, Lê. Đối với Nguyễn Ánh rõ ràng đây là một thách thức lớn. Vì sao? Thách thức phải giải quyết nhưng giải quyết như thế nào và vào lúc nào để hoàn thành tâm nguyện vừa không gây đến những phản ứng, những biến động lớn ảnh hường đến thắng lợi vừa đạt được?
Hãy điểm lại sự việc. Ngay từ khi chuẩn bị xuất quân ra Bắc Hà, trong cuộc hội bàn với các tướng lĩnh thân cận. Nguyễn Ánh đã nói: “Bắc Hà là nước cũ của nhà Lê, từ khi liệt thánh ta xây dựng cơ nghiệp ở miền nam, hơn 200 vẫn theo chính sách nhà Lê. Gần đây, Tây Sơn trộm quyền, ta phải lo dụng binh chỉ là để phục thù mà thôi. Nay bờ cõi đã được khôi phục mà đầu xỏ giặc lại trốn ra Bắc…Vậy thì sau khi bắt được tội nhân rồi, đối với nhà Lê sẽ ra sao?”[2]. Nghĩa là theo Nguyễn Ánh, sự việc này gây nên hai điều mặt cảm: một là, dòng họ Nguyễn, tổ tiên của ông, vốn là cựu thần của nhà Lê, hai trăm năm trước tuy làm chủ đất Đàng Trong nhưng chưa từng là một vương triều hoàn toàn độc lập, dù cho bệc tiền bối Nguyễn Phúc Khoát có bước đầu khởi động. Xóa bỏ nhà Lê, thành lập một triều đại mới có phải là một việc hợp lòng người, nhất là đối với người Bắc Hà hay không? Những việc làm của họ Trịnh trước đây đâu phải là không để lại một bài học nào? Thứ hai, họp binh dấy nghĩa trong suốt mấy chục năm ở đất Gia Định “chỉ là để phục thù cho dòng họ mà thôi” chứ đâu phải với ý đồ giành quyền bá chủ thiên hạ. Vậy giờ dây, nếu đánh thắng Tây Sơn, lên ngôi, xưng đế, thì điều đó có trái với ý nguyện và mục đích ban đầu hay không? Thế gian sẽ nghĩ như thế nào?
Thấu hiểu tâm tư của chủ, một số triều thần đã viện đủ lý do: “Từ khi vua Lê chạy sang nước Thanh, đi không thấy trở lại, đất Bắc Hà đã lọt vào tay giặc Tây Sơn rồi. Huống chi, từ khi quân nhà vua (chỉ Nguyễn Ánh) lấy lại đô cũ đến nay, những tôi dân nhà Lê không một ai ứng nghĩa đánh giặc, thế nhà Lê không dấy lại được nữa đã có thể thấy rõ rồi. Nay ta diệt được giặc Tây Sơ, chiếm được đất đai, đó là ta lấy ở giặc Tây Sơn chứ không phải lấy ở nhà Lê… Nay ta đánh miền Bắc mà vẫn còn dùng niên hiệu nàh Lê e rằng người Bắc bảo ta mượn tiếng phù Lê, chi bằng cứ chính đế vị, đổi niên hiệu, bày tỏ đại nghĩa với thiên hạ, như thế thì được nước chính đáng, không ai dị nghị được [3]
Vốn là một người từng trải, nếm mật nằm gai, lăn lộn trong hơn hai mươi băm chiến tranh với Tây Sơn, Nguyễn Ánh yên lòng với sự ủng hộ của các tướng lĩnh thân cận, song vẫn tạm gác lại vấn đề lại. Đợi đến mấy ngày sau, khi phần đông triều thần chính thức tâu: “Cúi xin vương thượng…trên vâng ý Trời, dưới theo lòng dâ, sớm lên ngôi tôn, xuống chiếu đổi niên hiệu[4], Ngyễn Ánh mới dè dặt dáp lại: “Thành Gia Định vừa lấy lại, đã lên ngôi Vương vì lòng người đã tôn kính lâu rồi. Nay kinh đô cũ vừa mới khôi pục, mà giặc nướ chưa trừ xong, việc lên ngôi chưa thể bàn được. Duy vương giả đổi họ chịu mệnh …năm phải có hiệu cho nên đổi niên hiệu là phải”[5]
Và ngày mủng 1 tháng 5 năm Nhâm Tuất (31/5/1802) Nguyễn Ánh cho lập đàn ở An Ninh (Thừa Thiên) tế cáo đất trời, “đặt niên hiệu Gia Long)5. Nhưng đó chỉ là bước thứ nhất của giải pháp. Có người nghĩ rằng sở dĩ Nguyễn Ánh chỉ đổi niên hiệu, chưa xưng đế là vì sợ nhà Thanh nghi ngờ; hơn nữa, phải đến khi chính thức xưng Hoàng đế, Gia Long mới tự gọi là “Trẫm”. sự thực không phải như thế.
Vấn đề là ở chỗ, theo lễ giáo Nho gia, ngay cả việc Nguyễn Ánh đặt niên hiệu cũng không hợp lẽ. Vì niên hiệu là một tiêu chí pháp lý ghi nhận sự tồ tại của một ông vua, đứng đầu một quốc gia riêng biệt. Ở thời điểm này, lực lượng của Nguyễn Ánh mới chiếm lại được Phú Xuân, đô thành cũ của Đàng Trong thời các chúa Nguyễn. Dù được tôn làm Nguyễn Vương, Nguyễn Ánh vẫn chưa phải là một vua một nước, chưa có quyền đặt niên hiệu. Hơn nữa, trong thực tế, đất Bắc Hà còn nằm dưới quyền thống trị của vương triều Tây Sơn, thế lực của quân Nguyễn Ánh đang lên nhưng không có nghĩa là họ sẽ nhanh chóng đánh bại các lực lượng của Tây Sơn, hoàn toàn làm chủ  cả nước. Điều này có cơ sở thông qua các tư liệu về nữ tướng Bùi Thị Xuân. Không những thế, khi đem quân từ Phú Xuân đánh ra Bắc Hà lực lượng Nguyễn Ánh không thể xem vương triều Tây Sơn như một thế lực ngoại xâm để có thể làm theo cách của Nguyễn Huệ, lập đàn lên ngôi Hoàng đế, đặt niên iệu, khẳng định quyền làm chủ của một dân tộc độc lập, chỉ đạo cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Thanh. Nhìn lại xa hơn về trước, chúng ta cũng thấy Lê Lợi trên bước đường tiến quân từ Thanh Hóa ra Bắc đánh quân xâm lược Minh cũng chỉ xưng Bình Định Vương, không hề đặt niên hiệu (chỉ đặt sau khi lên ngôi Hoàng đế 1428)
Vậy tại sao, Nguyễn Ánh lại làm như vậy? Chắc chắn là một con người như Nguyễn Ánh không thể không biết những điều nói trên, cũng không thể không biết ngay cả những bậc tiền bối như Nguyễn Phúc Khoát cũng chưa dám đặt niên hiệu, nhưng vẫn phài “dè dặt” đặt niên hiệu. Có lẽ, ông muốn làm vừa lòng các tướng lĩnh thân cận, góp thêm sức và ý chí đánh bại Tây Sơn của họ. Đây là một chủ trương của Nguyễn Ánh, ví như sử sách lại, đâu phải ngẫu nhiên mà trước đó, ít nhất đã bốn lần ông hạ lệnh lập đền, truy tôn các tướng sĩ, binh đinh trận vong. Tất nhiên việc đặt niên hiệu cũng là sự thề hiện một thắng lợi mới của tâm nguyện cá nhân, vượt qua mục dích “phục thù Tây Sơn” ban đầu.
Bước thứ nhất hoàn thành, nhưng giải pháp vẫn chưa trọn vẹn cho đến lúc đã “lấy trọn đất An Nam mười bốn trấn”, lật đổ vương triều Tâ Sơn, hoàn thành ý nguyện “phục thù”, Nguyễn Ánh xa giá ra Thăng Long mà không làm gì ngoài việc từ đây, chính thức tự xưng “Trẫm” khi ban bố các điều lệnh.
Bước thứ hai chỉ được thực hiện vào năm 1806, nghĩa là 4 năm sau khi tình hình đất nước đã tạm ổn định, kinh đô Phú Xuân đã xây dựng xong, tên “Thăng Long” đã được đổi nghĩa. “Mùa hạ tháng 5 năm Bính Dần” Nguyễn vương chính thức “lên ngôi Hoàng đế ở điện Thái Hòa” xuống chiếu bố cáo trong ngoài”[6]
Và như vậy, sau bốn năm tròn, thách thức thứ nhất đã được giải quyết khá êm đẹp.

2. Thách thức thứ hai:

Vương triề Tây Sơn bị lật đổ. Đất nước đã hợp nhất lại sau 200 năm chia cắt, thậm chí đã có lúc đứng trước nguy cơ bị tách thành hai quốc gia riêng biệt. Hơn tám đời người đâu phải ngắn ngủi, dù cho tình cảm dòng họ gốc gác vẫn còn trong ký ức; vả lại, sau 200 năm tồn tại riêng biệt, dù xuất phát từ một nguồn, Đàng Trong đâu phải không có những nét chính trị, kinh tế, văn hóa khác biệt so với Đàng Ngoài. Như Nguyễn Ánh đã từng suy nghĩ “Bắc Hà là nước cũ của nhà Lê” sau hơn 10 năm dưới triều Tây Sơn đâu có làm thay đổi đáng kể, đặc biệt trong tư tưởng của các cựu thần nhà Lê, nho sĩ. Họ Nguyễn lại không như vương triều Tây Sơn, một sản phẩm của phong trào Tây Sơn. Chưa “chính đế vị” ngay vẫn là một việc có tính hình thức, vấn đề quan trọng hơn là giải quyết như thế nào về thể chế chính trị ở hai miền? Có nên nhập mhay hai miền làm một, có cùng thể chế, đặt dưới quyền của một triều đình Trung Ương hay không? Điều này đã khó nhưng khó hơn là nhân dân và sĩ phu Bắc Hà có sãn sàng chấp nhận hay không? Rõ ràng đây là một thách thức có ý nghĩa  lâu dài không chỉ đối với Gia Long mà còn cả đối với các vị vua kế nghiệp, nhất là Minh Mệnh.
Cũng theo tinh thần của vấn đề “chính đế vị”, đặt niên hiệu, Gia Long cùng các tướng lĩnh trung thành đã tìm giải pháp từng bước cho thách thức.
Bước thứ nhất, tháng 9 năm đó (Nhâm Tuất) khi sắp hồi loan về Phú Xuân, Gia Long đã hạ lệnh hợp mười một trấn phía bắc của Thanh Hóa, nơi “dân vật đều mới mà thành Thăng Long lại là nơi quan trọng của Bắc Hà”[7] làm Bắc thành, củ Nguyễn Văn Thành, một vị tướng vừa có công lớn vừa hiểu biết ít về chính trị, làm Tổng trấn. Nhà vua “ban cho sắc ấn, phàm những việc cất bãi quan lại, xử quyết kiện tụng đều được tùy tiện mà làm rồi mới tâu sau”, đặt ba tòa Hộ, Binh, Hình…theo tổng trấn xét biện công việc[8]. Với sự kiện này, Bắc thành trở thành một đơn vị hành chính tự trị, chỉ chịu sự chỉ đạo chung của vua ở Trung ương. Trong bối cảnh của đất nước đương thời, việc biến Bắc Hà thành một khu vực tự trị, dù đặt dưới một bộ máy quan lại triều Nguyễn, không thể không tạo điều kiện cho những hoạt động có ảnh hưởng đến nền thống trị chuyên chế của nhà nước Trung ương. Chắc chắn, một con người như Gia Long không thể không hiểu điều đó, nhưng tình thế bắt buộc, chưa thể làm khác được, vả lại đây chỉ là bước đầu, như sau này Minh Mệnh đã nhận xét: “quyền nghi tạm đặt, thánh minh lo xa vẫn muốn sửa lại.[9] Quả vậy, Gia Long sau đó đã từng bước ban hành một số biện pháp nhằm đảm bảo quyền lực tập trung của mình, như cho xây dựng lại hệ thống đường cái quan từ Nam ra Bắc, đặt hệ thống trạm dịch chuyển tấu, sớ, chiếu chỉ, năm 1804, nhất thể hóa bộ máy chính quyền ở các dinh Đàng Trong cũ thành trấn. Để tỏ ra không quá mặc cảm với đất ở Bắc Hà cũ, đồng thời như nhận xét của một vài nhà sử học, để tạo nên một đối trọng nhòm ngó Bắc thành giúp mình, năm 1808, Gia Long cho hợp nhất năm trấn cực Nam thành Gia Định thành, đặt chế độ tổng trấn tương tự như Bắc thành. Cũng theo các nhà sử học nói trên, năm 1813, khi đưa Lê Văn Duyệt lên làm tổng trấn Gia Định thay cho Nguyễn Văn Nhân, Gia Long đã thể hiện nỗi lo lắng của mình. Điều này càng rõ hơn khi Nguyễn Văn Thành bị vu oan làm phản và chịu tự tử để giữ toàn danh tiết, mặc dầu như sử cũ ghi lại là Gia Long đã rất đau xót vì quyết định của minh.
Nhưng bước thứ nhất cho đến khi Gia Long qua đời vẫn chưa kết thúc được. Người kế nghiệp là Minh Mệnh vẫn thường xuyên bị ám ảnh, đau đầu vì thách thức này, nhất là khi Nguyễn Văn Thành, Lê Chất chết, Lê Văn Duyệt tỏ ra không còn như trước nữa. Năm 1836, khi thành Quảng Bình vừa đắp xong, Minh Mệnh xa giá ra thăm và báo với các thị thần: “Một dải đường thành làm giới hạn Nam Bắc, xưa các vua thánh ta thấy họ Trịnh chuyên quyền làm bậy nên đặt thành ấy để giữ nước, không phải để chống nhà Lê. Hoàng Khảo thế tổ cao Hoàng đế ta trung hưng mà cả đất Việt, vẫn muốn sửa sang nhưng chưa kịp… Thành này là then khóa ở cửa Bắc nên sai trọng thần giữ, kinh binh đóng thú”[10] rồi sai cấp dinh lỵ Quảng Bình 230 cỗ súng lớn, 200 giáo dài và 200 súng tay có máy đá để bảo vệ thanh lũy (trong lúc đương thời Hà Nội có 150 cỗ súng lớn, Gia định có 70 cỗ, Hải Dương, Nam Định có 200 cỗ). Mặc cảm càng tăng thêm vì đây là thời gian mở rộng hoạt động của nghĩa quân Phan Bá Vanh, không thể dừng lại ở biện pháp nửa với được, Minh Mệnh đã thực hiện bước thứ hai của giải pháp.
Năm 1831, trong một cuộc đàm đạo với triều thần, Minh Mệnh đã theo đền nghị của họ “đến Minh, Thanh châm chước ngày càng kỹ… nên mô phỏng mà làm, tưởng cũng có lợi nhiều lắm”[11]. Trong mười lăm điều lợi mà họ nêu, có những điều như; “chấm dứt tình trạng phân quyền, tránh được mối lo “đuôi to khó vẫy”, huy động quân không phải qua thành, các hạt đều có trọng binh…”. Cuộc cải cách hành chính theo mô hình Minh Thanh bắt đầu ở Bắc thành. Từ Bắc Thừa Thiên ra Bắc được chia thành 18 tỉnh. Năm sau đó 1832, khi Lê Văn Duyệt mất, Gia Định thành cũng bị xóa bỏ, từ Nam Thứ Thiên vào Nam được chia thành 12 tỉnh. Hệ thống hành chính được thiết lập theo đúng mô hình nhà Thanh: đứng đầu các liên tỉnh là Tổng đốc (trừ Thanh Hóa đặt riêng một Tổng đốc), vị trí tiếp sau là Tuần Phủ, phụ trách một tỉnh, bên dưới là hai cơ quan Bố chính sứ ty phụ trách mọi việc ruộng đất, hộ tịch, thuế khóa…và Án sát ty sứ phụ trách tư pháp an ninh, Tiếp đó, theo chế độ nhà Thanh, Minh Mệnh với tay đến miền núi, đặt chế độ thổ ty, thổ tuy châu, thổ ty huyện và sau đó là chế độ lưu quan. Các vùng dân tộc được phân chia theo diện tích ruộng đất và số lượng dân đinh.
Như vậy đây là lần thứ hai sau cuộc cải cách của Lê Thánh Tông, cả nước được nhất thể hóa về mặt hành chính. Thách thức đặt ra về cơ bản đã được giải quyết. Có nhiều người chỉ nhìn nhận cuộc cải cách hoàn toàn về mặt hành chính. Nhưng vấn đề không đơn giản như vậy, nếu không tại sao năm 1833, trong lúc vui mừng, Minh Mệnh đã nói với cận thần: “Duy ta nghĩ các hạt Bắc Kỳ (Bắc Hà cũ) năm trước trộm cắp lan tràn, sau khi chia đặt qỉnh quan, ngày dần yên ổn”, tại sao các Tổng đốc, Tuần Phủ Bắc kỳ ban đầu đều là võ quan cao cấp…và sau đó nam 1838, khi nhận thấy quốc hiệu Đại Việt vẫn thông dụng, đặc biệt là Bắc kỳ, ông dã hạ lệnh “từ nay về sau quố hiệu phải gọi là Đại Nam…quyết không được gọi lại hai chữ Đại Việt”[12]. Mặc dầu vậy, giải pháp cuối cùng của Minh Mệnh – cuộc cải cách hành chính địa phương các năm 1831 – 1832 là một mốc son quan trọng trên con đường thống nhất đất nước.
Trên đây chỉ là những thách thức và giải pháp ban đầu, nhiều thách thức và giải pháp khác tiếp sẽ được tìm hiểu





[1] Khoa lịch sử - Đại học sư pham Hà Nội
[2] Đại Nam thực lục, tập III. NXB Sử học, Hn 1963, tr. 18
[3] Đại Nam thực lục, tập III. NXB Sử học, Hn 1963, tr 19
[4] Đại Nam thực lục, tập III. NXB Sử học, Hn 1963, tr 19
[5] Đại Nam thực lục, tập III. NXB Sử học, Hn 1963, tr. 20, 23
[6] Đại Nam thực lục, tập III. NXB Sử học, Hn 1963, tr . 281
[7] Đại Nam thực lục, tập III. NXB Sử học, Hn 1963, tr. 80
[8] Đại Nam thực lục, tập III. NXB Sử học, Hn 1963, tr. 80
[9] Đại Nam thực lục, tập III. NXB Sử học, Hn 1963, tr. 80
[10] Đại Nam thực lục, tập III. NXB Sử học, Hn 1963, tr. 45
[11] Đại Nam thực lục, tập III. NXB Sử học, Hn 1963, tr. 352
[12] Đại Nam thực lục, tập III. NXB Sử học, Hn 1963, tr. 317

Theo "Lịch sử nhà Nguyễn một cách tiếp cận mới"

ĐẶNG DUNG (? – 1413)

Danh tướng nhà hậu Trần, con của Đặng Tất*. Ông đã cùng cha theo giúp Giản Định Đế khởi nghĩa chống quân Minh đang đô hộ Đại Việt. Năm Kỷ Sửu (1409) Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân* bị Giản Định Đế nghi ngờ giết đi. Tháng ba năm ấy Đặng Dung cùng với Nguyễn Cảnh Dị* (con của Nguyễn Cảnh Chân) bỏ Giản Định Đế, đem quân vào Nghệ An, lập cháu của vua Trần Nghệ Tông là Trần Quý Khoách* lên ngôi vua tức là Trần Trùng Quang (sau đó Trần Quí Khoách đánh úp bắt Giản Định Đế đưa vè tôn làm Thái Thượng hoàng để thống nhất lực lượng nghĩa quân). Đặng Dung cùng Nguyễn Cảnh Dị chỉ huy nghĩa quân từ Thanh Hóa tiến đánh ra vùng Hạ Hồng, Chí Linh (Hải Dương) đẩy lùi quân Minh vào cố thủ trong thành Đông Quan. Tháng 6 năm 1409 Nhà Minh phái Trương Phụ dẫn gần năm vạn quân sang tiếp viện. Đặng Dung có nhiệm vụ trấn giữ Hàm Tử Quan (Hưng Yên) nhưng vì thiếu lương thực nên phải rút lui. Qua năm 1410 Đạng Dung lại cùng Nguyễn Cảnh Dị tiến quân ra đánh Hạ Hoàng, thắng được quân Minh nhưng qua năm 1411 phải rút về giữ Thanh Hóa, Nghệ An.
Tháng 6 năm Quý Tị 1413 Trương Phụ đem quân vào đánh lấy Nghệ An rồi tiến đế Thuận Hóa. Trong một trận thủy chiến, Đặng Dung đã vào được thuyền của Trương Phụ định bắt sống y, nhưng không biết mặt, Trương Phụ nhảy xuống một thuyền con trốn được. Chẳng bao lâu sau, Đặng Dung cùng Trần Quý Khoách, Nguyễn Cảnh Dị bị quân Minh bắt hết cả. Trên đường bị giải đi Trung Hoa, Đặng Dung nhảy xuống sông tự tử.
Đặng Dung còn là tác giả bài thơ Thuật Hoài được nhiều người biết đến.
Thế sự du du nại lão hà!
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
Quốc thù vị phục đầu tiên bạch
Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma
(Việc đời bối rối tuổi già vay!
Trời đất vô cùng một cuộc say
Thù trả chưa xong đầu đã bạc
Gươm mài bóng nguyệt biết bao ràng).
L.V.H.

Theo "Những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam" Tôn Nữ Quỳnh Trân (CB), NXB Văn hóa thông tin, NXB 1993

Friday, March 25, 2016

ĐÀO TẤN (Đào Đăng Tiến, Đào Tiến, 1845 – 1907)

Nhà thơ, nhà viết tuồng nổi tiếng, tự Chỉ Thúc, hiệu Mộng Mai, Mai Tăng, sinh tại làng Vĩnh Thạnh, phủ Tuy Phước, tỉnh Bình Định, trong một gia đình nông dân. Lúc nhỏ, ông là học trò của Nguyễn Diêu, tác giả của nhiều vở tuồng có tiếng. Chịu ảnh hưởng của thấy học nên ông đã tập viết tuồng từ thuở còn trẻ. Năm 22 tuổi Đào Tấn đậu Cử nhân (1867). Bốn năm sau ông vào làm Hiệu thư ở Huế, chuyên soạn các vở tuồng theo lệnh của vua Tự Đức. Các vở Đảng khấu, Bình địch, Tam bảo thái giám thủ biểu được viết trong thời gian này. Năm 1874 ông được bổ nhiệm làm Tri phủ Quảng Trạch sau Thăng Thừa chỉ, Thị độc rồi Phủ doãn tỉnh Thừa Thiên (1878). Ông phụng chỉ soạn các vở tuồng như Tư Quốc Lai Vương, Quần Trân Hiến Thụy. Người ta kể lại rằng, ông soạn vở Vạn bảo trình tường lúc đang làm quan ở Quảng Ngãi, có kẻ thấy ông chỉ lo soạn tuồng mà lơ là việc quan nên đêm đến viết ở hai bên cổng dinh đường câu đối: “Hát hay, học dở”. Sáng ra được lính canh báo và xin cho xóa đi, nhưng ông cười và cản lại. Đếm đến, từ bố chữ trên ông viết thành câu đối rất chỉnh, với nét chữ bay bướm, tài hoa: “Hát hay chính kép Qui Nhơn thiệt; Học dỡ làm quan Quảng Ngãi chơi”, làm cho dân chúng ở tỉnh lỵ Quảng Ngãi phải sững sốt và thán phục. Tài viết chữ đẹp của Đào Tán làm nên giai thoại sau: Con quan Tổng đốc Quảng Ngãi vì chuộng nét chữ tài hoa của Đào Tấn nên hay sưu tập bút tích của ông. Biết được điều đó, bạn ông là Võ Văn Nho thường đến xin bút tích của ông rồi đưa cho con của quan Tổng đốc đổi lấy thịt. Đến ngày sinh của Đào Tấn, Văn Nho lại viết thư chúc mừng mong được thư trả lời. Nhưng Đào Tấn đã biết chuyện, không phúc đáp lại. Khi người nhà của bạn giục, ông cười bảo: “Anh về bảo Văn Nho, bữa nay kiêng không sát sinh”. Khi Tự Đức mất (1883) ông cáo quan về nhà nhưng sau đó lại ra làm quan dưới triều Đồng Khánh. Đào Tán cũng là người nổi tiếng thẳng thắng, bộc trực. Năm 1885, sau khi kinh đô Huế thất thủ, người Pháp đặt ách đô hộ ở Trung kỳ, dung hang trăm bồi bếp làm tay chân. Bọn này cậy thế người Pháp, nên thường hà hiếp, bắt nạt từ dân đến quan, khiến ai cũng phải sợ. Đào Tấn cho người theo dõi và lập hồ sơ bồi Ba, một tay sai khét tiếng của Pháp. Khi đã đầy đủ bằng cớ, ông cho bắt và đem chém ở bờ sông Hương. Được tin, viên Khâm sứ Pháp đến can thiệp nhưng trước tội trạng rành rành của bồi Ba đành phải ngậm miệng. Sau vụ này, các quan đại thần trong triều phải phục “ông Phủ doãn có máu Quan Vân Trường”. Năm 1889, ông được bổ nhiệm làm Tổng đốc An – Tĩnh (Nghệ An – Hà Tĩnh), rồi lần lượt làm Thượng thư Bộ Công, Thượng thư Bộ Binh, Thượng thư Bộ Hình. Ông tiếp tục soạn các vở tuồng như: Diễn Võ đình, chỉnh lý lại các vở Khuê các anh hùng (tức Tam nữ đồ vương), Sơn hậu, Đào Phi Phụng. Năm 1898, ông lại được bổ lam Tổng đốc An – Tĩnh lần thứ hai. Thời gian này ở Nghệ An, Phan Bội Châu* đang tích cực hoạt động chống Pháp. Mặc dù trước đó ông không tham gia phong trào Cần Vương và Văn Thân, Đào Tấn đã ngấm ngầm giúp đỡ nhà cách mạng họ Phan. Cũng ở đây, ông soạn thêm các vở Quan Công quá quan, Trầm hương các, Hoàng Phi Hổ quá quan, Hổ danh đàn. Ông còn sáng tác gần 1.000 bài thơ và từ, tập hợp trong các tập Mộng Mai ngâm thảo, Mộng Mai thi tồn, Mộng Mai tù lạc, Mộng Mai văn sao. Năm 1902, Đào Tấn được gọi về triều làm Thượng thư Bộ Công, nhưng được hai năm phải về hưu vì mâu thuẫn với Nguyễn Thân, Thượng thư Bộ Lại một kẻ thân Pháp. Ngày rằm tháng Bảy năm Đinh mùi (23.8.1907) Đào Tấn qua đời, để lại cho hậu thế những vở tuồng được nhiều người ưa thích.

V.H.L

Theo "Những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam", Tôn Nữ Quỳnh Trân (CB), NXB Văn hóa thông tin, NXB 1993

ĐÀO NGUYÊN PHỔ (1860 - ?)

Nhà sử học, nhà báo, một trong những người sáng lập Đông Kinh Nghĩa Thục, tên thật là Đào Văn Mai, tự Hoành Hải, hiệu Tảo Bi, người làng Thượng Phán, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình. Thuở nhỏ ông học chữ Nho, năm 17 tuổi đã đậu cữ nhân. Năm Thành Thái thứ 10 (1898) đỗ Hoàng giáp, làm Thừa chỉ sau được cử làm Chủ bút tờ “Đông Văn Nhật Báo”. Năm 1905, ông cùng với Lương Văn Can*, Võ Hoành, Phan Chu Trinh* bàn việc duy tân. Ông là người nghiện thuốc phiện nhưng khi hưởng ứng phong trào Duy Tân, ông đã đập bỏ bàn đèn quyết xa lánh ả phù dung. Cơn nghiện hành hạ khiến Đào  Nguyên Phổ ốm cả tháng nhưng ông vẫn quyết bỏ. Ông tích cực khuyến khích việc thanh niên xuất dương trong phong trào Đông Du. Năm 1906 Đào Nguyên Phổ cùng với Lương Văn Can, Nguyễn Quyền mở trường Đông Kinh Nghĩa Thục để mở mang dân trí cho đất nước, tiến lên tự lực, tự cường. Tuy không tham gia giảng dạy nhưng ông thường đóng góp ý kiến cho công cuộc cách tân của trường. Ngoài việc làm báo ông còn viết sách lịch sử như Việt sử Tân ước, và là người đề tựa cuốn Truyện Kiều do Kiều Oánh Mậu* chú giải và hiệu đính. Đào Nguyên Phổ mất năm nào không rõ.

V.H.L.

Theo "Những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam", Tôn Nữ Quỳnh Trân (CB), NXB Văn hóa thông tin, NXB 1993

Wednesday, March 23, 2016

ĐÀO DUY TỪ (1572 – 1634)

Khai quốc công thần nhà Nguyễn, người làng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Cha là Đào Tá Hán làm Quản giáp nghề ca hát, sau thăng chức Linh quan, coi đội nữ nhạc trong đại nội dưới triều vua Lê Anh Tông.
Đào Duy Từ vốn thông minh, học rộng, biết nhiều, sở trường thơ văn lại còn tinh thông lý số và binh pháp. Năm 1592, gặp lúc Trịnh Tùng mở kỳ thi Hương, ông nộp quyển xin ứng thí nhưng theo luật thời đó, con nhà hát xướng không được thi. Ông về nhà, vẫn tiếp tục theo đuổi việc học hành chứ không nản chí. Sau khi cha mẹ mất, ông lên Đông Kinh (Hà Nội) vào học trường Chiêu Văn Quán. Đào Duy Từ nhận thấy mình ở đất Trịnh cũng không thể nào tiến thân được, nên bỏ vào Nam tìm đường gây dựng sự nghiệp. Đến phủ Hoài Nhơn (Tức Bồng Sơn – Bình Định) ông ở chăn trâu cho một điền chủ có tiếng ở thôn Tùng Châu. Một hôm, nhân chủ nhà có tiệc, nhiều danh sĩ trong vùng đến uống rượu làm thơ. Đào Duy Từ dự thính và gặp dịp cũng ứng đối hoạt bát, tỏ ra là người học rộng biết nhiều. Nhà điền chủ rất ngạc nhiên, tỏ lòng mến phục và tiến cử cùng Khâm lý Trần Đức Hòa, ông được Hòa gả con gái cho đoạn tiến cử với Chúa Sãi (Nguyễn Phúc Nguyên). Chúa Sãi biết mình gặp người tài, phong làm Nha úy Nội tán (1627), quản lý cả việc quân cơ trong ngoài. Từ đó, Đào Duy Từ thường cùng chúa Nguyễn bàn bạc việc quốc chính. Trong tám năm làm quan ở Đàng Trong, Đào Duy Từ đã bày mưu tính kế, xây lũy đắp thành, luyện quân tuyển tướng, giữ đấ chống mệnh vua Lê, không chịu nạp cống phú, góp phần đắc lực vào việc xây dựng cơ đồ Chúa Nguyễn. Chính ông là người đắp hai rặng lũy Trường Dục và Nhật Lệ (Quảng Bình). Lũy Trường Dực đắp năm 1629 đến 1630 thì xong, dài khoảng 10km, chân rộng 6m, cao 3m, kéo dài từ chân núi chùa Non đến làng Quảng Xá. Đứng trên cao nhìn xuống guống hình chữ hồi (…) nên được gọi là Hồi văn. Lũy Nhật Lệ (1631) cao 6m, dài 12km, chạy từ cửa biển Nhật Lệ, mem theo hai sông Lệ Kỳ và sông Nhật rồi tiến dài ra đến làng Động Hải (Đồng Hới). Lũy này rất kiên cố, xen kẽ còn có các pháo đài, chòi canh, là nơi hiểm yếu ngăn trong Nam ngoài Bắc, tục còn gọi là Lũy Thầy hay Sư Lũy ngụ ý tôn bậc thầy. Đào Duy Từ cũng có hiến kế cho chúa Sãi trả lại sắc thư cho vua Lê, thư đặt trong một mâm đồng hai đáy cùng với tấm thiếp đề bốn hang chữ, giải ra là bốn chữ “Dư bất thụ sắc” (nghĩa là: ta không nhận sắc phong”.
Ngoài Bắc, chúa Trinh dò tin tức biết rõ Đào Duy Từ là quân sư của chúa Sãi, rất hối tiếc, nhiều lần cho người mang phẩm vật vào cầu dụ Đào Duy Từ, nhưng lần nào cũng thất bại. Tương truyền, có lần ông đã mượn lời bài thơ người con gái tạ lại bạn tình để trả lời:
“Ba đồng một miếng trầu cay
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?...
hoặc hai câu thơ tỏ lòng dứt khoát:
Có lòng xin tạ ơn lòng
Đừng đi lại nữa mà chồng em ghen.
Đào Duy Từ bệnh mất ngày 17.10.1634, lúc ông 63 tuổi, được chúa Nguyễn phong tặng tước Lộc Khê Hầu, lập đền thờ tại thôn Tùng Châu, Bồng Sơn, Bình Định. Về sau, vua Gia Long xét lại công trạng ông, cho tòng tự tại Thái Miếu. Minh Mạng lại truy tặng là bậc Khai quốc công thần.
Về sự nghiệp văn chương, ngoài hai bản trường thi nổi tiếng viết bằng chữ Nôm là Ngọa Long Cương vãnTư dung vãn, ông còn là tác giả của nhiều bài vè, bài hát về những vùng đất mới khai phá, nhưng đều bị thất truyền cả. Về biên khảo, ông còn để lại tập “Hổ trướng khu cơ” là bộ binh thư quân pháp viết bằng chữ Hán. Tương truyền, khi vào Đàng Trong, ở Tùng Châu ông đã mang nghệ thuật hát bộ gia truyền dạy cho dân địa phương, và là người khởi thảo vở tuồng cổ “Sơn Hậu’.

Th.N.

Theo "Những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam", Tôn Nữ Quỳnh Trân (CB), NXB Văn hóa thông tin, NXB 1993

ĐÀO DUY ANH (1904 – 1988)

Học giả, biệt hiệu Vệ Thạch, quê làng Khúc Thủy, xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (Hà Sơn Bình), sinh ngày 25.5.1904 tại Thanh Hóa. Năm lên sáu tuổi ông bắt đầu học chữ Hán, đến năm 11 tuổi chuyển sang học Trường Tiểu học ở Thanh Hóa. Năm 1923, ông tốt nghiệp Thành chung tại Trường Quốc học Huế, sau đi dạy học ở Đồng Hới, Quảng Bình. Gặp Phan Bội Châu*, ông thôi dạy học vào Đà Nẵng, cùng với Huỳnh Thúc Kháng sáng lập báo “Tiếng Dân” và giữ chức Thư ký tòa soạn (1926). Năm 1927 Đào Duy Anh tham gia Đảng Tân Việt. Năm sau, ông sáng lập ra Quan hải tùng thư, cơ quan xuất bản của Đảng Tân Việt, chuyên xuất bản các sách báo yêu nước tiến bộ. Ông tập hợp được các nhà tri thức cách mạng như Trần Đình Nam, Võ Liêm Sơn, Phan Đăng Lưu*… để dịch và soạn nhiều sách phổ cập về triết học, lịch sử, kinh tế, chính trị học, văn học, trong đó có sách về chủ nghĩa duy vật lịch sử và duy vật biện chứng, về chủ nghĩa Mác-Lê nin… Năm 1929 ông cùng với vợ bị mật thám Pháp bắt. Sau khi được thả (cuối 1930) ông chuyển hẳn sang hoạt động văn hóa: cho tục bản Quan hải tùng thư, biên soạn và cho in Hán Việt từ điển (1932), Pháp Việt từ điển (1936), viết một số tác phẩm như: Việt Nam văn hóa sử cương (1938), Khảo luận về Kim Vân Kiều (1943), Trung Hoa sử cương (1944)… Đào Duy Anh còn sưu tầm được nhiều di sản văn hóa dân tộc như dạp lại các bản khắc gỗ quý của Quốc sử quán nhà Nguyễn, phát hiện ra bản thảo Hoa Tiên ký của Nguyễn Huy Tự, cùng bút tích Nguyễn Trường Tộ* qua tập Điều trần.
Sau Cách Mạng Tháng Tám, Đào Duy Anh hoàn chỉnh hai công trình sử học: Cổ sử Việt Nam và giáo trình Lịch sử Việt Nam.
Sau 1954, Đào Duy Anh là Giáo sư sử học tại các trường Đại học Sư phạm và Đại học Tổng hợp Hà Nội. Ông cũng cho công bố nhiều tác phẩm có giá trị như: Lịch sử cổ đại Việt Nam (4 tập, 1957), Vấn đề hình thành các dân tộc Việt Nam (1957). Từ năm 1960 ông công tác tại Viện Sử học và tiếp tục công bố các tác phẩm: Đất nước Việt Nam qua các đời (1964), Chữ Nôm – Nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến, Từ điển truyện Kiều (1974). Đào Duy Anh còn dịch và hiệu đính nhiều tác phẩm Hán Nôm như Đại Nam thực lục chính biên, các tác phẩm của Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn… Ông mất ngày 1.4.1988 tại Hà Nội.
Đào Duy Anh là một học giả lớn của dân tộc Việt Nam. Từ điển bách khoa Larousse (1968) coi ông là “một tên tuổi lớn trong các nhà bách khoa toàn thư hiện đại”.

V.H.L.

Theo "Những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam", Tôn Nữ Quỳnh Trân (CB), NXB Văn hóa thông tin, NXB 1993

ĐÀO CAM MỘC (? – 1015)

Công thần nhà Lý. Dưới triều Lê Long Đĩnh (1005 – 1009), Đào Cam Mộc giữ chức Chi hậu. Thấy Long Đĩnh là một ông vua tàn ác, bạo ngược, ông khuyên Lý Công Uẩn* nên thừa thời cơ, tự lập làm vua để yên thiên hạ. Khi Lê Long Đĩnh chết (1009), con còn bé, ông và một số triều thần họp các quan lại bảo: “Hiện nay dân chúng khác lòng, trên dưới lìa ý, mọi người chán ghét Tiên đế hà khắc bạo ngược, không muốn theo về vua nối mà đều có lòng suy tôn quan Thân vệ (Lý Công Uẩn), bọn ta không nhân lúc này cùng nhau tôn phù Thân vệ làm Thiên tử, phút chốc có xảy ra tai biến, chúng ta có thể giữ được đầu không?”. Mọi người hưởng ứng, tôn Lý Công Uẩn lên làm vua, tức Lý Thái Tổ*, lập ra nhà Lý. Lý Thái Tổ phong cho ông tước Nghĩa tín hầu và gả con là An Quốc cho. Khi ông mất, được truy tặng là Thái sư Á vương.

L.V.N.

Theo "Những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam", Tôn Nữ Quỳnh Trân (CB), NXB Văn hóa thông tin, NXB 1993

Monday, March 21, 2016

DƯƠNG VÂN NGA (? – 1000)

Tương truyền bà là con một bộ tướng của Dương Đình Nghệ*, là một trong năm người vợ của Đinh Bộ Lĩnh*. Năm 979 sau khi Đinh Bộ Lĩnh và con là Đinh Liễn bị giết, triều đình nhà Đinh tôn con bà là Vệ vương Đinh Toàn mới năm tuổi lên nối ngôi. Bà lên làm Thái hậu và giúp con coi việc nước.
Năm 980, quân Tống kéo sang xâm lăng Đại Cồ Việt, Dương Vân Nga giao cho Thập đạo tướng quân Lê Hoàn* tổ chức việc chống giặc. Trong tình thế vận mạng đất nước đang bị nạn ngoại xâm đe dọa, quan quân muốn tôn Lê Hoàn lên ngôi vua. Chiều theo lòng người, Thái hậu sai lấy áo long cổn của Đinh Tiên Hoàng khoác cho Lê Hoàn, trao ngôi vua cho ông. Sau khi đánh thắng quân Tống, vua Lê Đại Hành phong bà làm Đại thắng minh Hoàng hậu.

L.V.N.

Theo "Những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam", Tôn Nữ Quỳnh Trân (CB), NXB Văn hóa thông tin, NXB 1993

DƯƠNG KHUÊ (1839 – 1902)

Nhà thơ, quan đại thần nhà Nguyễn, có biệt hiệu là Vân Trì, người làng Vân Đình, huyện Hương Minh, Hà Đông (Hà Sơn Bình). Dương Khuê sinh trưởng trong một gia đình vọng tộc, khoa bảng, thân sinh là Dương Quan, từng thi đỗ ba khóa tú tài, em là Dương Lâm đỗ Giải nguyên, làm quan đến chức Thái tử Thiếu Bảo, Hiệp biện Đại học sĩ. Dương Khuê nổi tiếng thông minh, văn hay, học giỏi từ nhỏ, đã đỗ Cử nhân và tiến sĩ trong hai năm liền (1868) và được bổ làm Tri phủ Bình Giang, Tổng đốc tỉnh Nam Định, Ninh Bình và sau đó làm Thượng thư hàm Tham tá, Nha kinh lược Bắc kỳ. Lúc về hưu, Dương Khuê được phong Thượng thư Bộ Binh.
Là một quan lại sống từ thời vua Tự Đức đến thời Thành Thái, trải qua nhiều biến cố quan trọng trong lịch sử, song qua các tác phẩm còn để lại, Dương Khuê dường như có khuynh hướng tự tách mình ra khỏi quỹ đạo của hiện tại xã hội và lịch sử đương thời. Tác phẩm của Dương Khuê gồm Vân Trì thi thảo cùng một số lớn bài viết theo thể ca trù, câu đối, hát nói như Nợ phong lưu, Gặp cô đào Cúc, Gởi cô đào Ngọ, Chơi trăng, Cái dại, May rủi

Y.T.

Theo "Những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam", Tôn Nữ Quỳnh Trân (CB), NXB Văn hóa thông tin, NXB 1993

Friday, March 18, 2016

NHÀ NGUYỄN TRONG LỊCH SỬ DÂN TỘC


GIÁO SƯ VĂN TẠO[1]

Sử học với chức năng là một khoa học luôn coi trong tínhcông minh lịch sử, bởi vì có công minh lịch sử mới có công minh xã hội “công minh xã hội” là điều mà hiện nay Đảng rất coi trọng, bởi mục tiêu phấn đấu của toàn dân mà Đại hội Đảng lần thứ IX (2001) đề ra là “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Còn “công minh lịch sử” là tôn trọng tính khách quan khoa học trong nhận thức lịch sử, biên soạn, giảng dạy lịch sử. Khi đánh giá một nhân vật lịch sử thì ưu, nhược điểm phải rõ ràng; trong nhân vật đó với xã hội thì phải rõ ràng; trong quan hệ của nhân vật đó với xã hội thì “công”, “tội” cần được xét đoán công minh. Không phải yêu thì tội thành công, khi ghét thì công hóa ra tội.
Khoa học lịch sử macxit không những khẳng định tính “công minh lịch sử”mà còn có điều kiện thực hiện tính công minh đó, vì khoa học này lấy Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho hành động.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử coi các nhân vật lịch sử cũng là những con người, là những thực thể khách quan trong xã hội (không phải là thần thánh, thần linh), là sản phẩm của lịch sử xã hội. Con người vừa tác động đến lịch sử xã hội (đẩy lịch sử xã hội tiến lên hay kéo lùi lịch sử xã hội) vừa chịu sự tác động khách quan của xã hội.
Một vương triều phong kiến như nhà Nguyễn cũng vậy, vừa là tác nhân lịch sử, vùa là sản phẩm của lịch sử xã hội. Vì vậy, phải nhận thức về nhà Nguyễn cũng phải đặt trong bối cảnh lịch sử của dân tộc và nhân loại, lại xem xét cả trog các trục “tung” (lịch đại) và trục “hoành” (đương đại) của lịch sử. Phải đứng trên quan điểm lịch sử của chủ nghĩa Mac-Lenin mà xem xét: hiện tượng lịch sử ấy đã phát sinh thế nào, phát triển thế nào, đương đại nó đã như thế nào và kết cục về lịch đại, nó cần được đánh giá như thế nào?
Nhà Nguyễn kể từ Gia Long Nguyễn Ánh - người “dựng nên Đế nghiệp cho Nguyễn trều” từ năm 1802 đến Bảo Đại – người tự nguyện thoái vị, nhận là công dân một nước Việt Nam độc lập tự do năm 1845 tồn tại 143 năm. Trong 143 năm đó, đất nước lúc còn lúc mất, vua Nguyễn khi phế khi hưng, nhưng dân tộc Việt Nam vẫn vượt qua gian khó đển trường tồn và phát triển, đ6át nước Việt Nam vẫn vững bước tiến lên sánh vai kịp với bốn biển năm chấu. Qua 143 năm kiên cườn phấn đấu, Việt Nam đã từ chế độ phong kiến lạc hậu thời trung cổ tiến lên chế độ dân chủ nhân dân thời hiện đại – chế độ dân chủ tư sản không có giai cấp tư sản lãnh đạo
Trong quá trình chuyển hướng ấy, vương triều nhà nước đã phát sinh như thế nào? Có vai trò chủ quan và chịu sự tác động khách quan gì của lịch sử xã hội hay không? Có công, có tội gì với dân tộc, với đất nước.

I. VỀ QUÁ TRÌNH PHÁT SINH

1. Vương triều Nguyễn phát sinh từ một “nghệp chúa” lẫy lừng ở phương Nam. Kể từ thời Nguyễn Hoàng ở phương Nam (1600 - 1613) đến các chúa trước Nguyễn Phúc Ánh, đáng kể là thời Nguyễn Phúc Khoát (1738 – 1765), đã góp phần rất lớn vào lịch sử dân tộc. Đó là sự phát triển đất nước xuống phía Nam, mở mang bờ cõi, tạo dựng nên được một cơ đồ vững chãi: nông, công, thương, thủ công nghiệp phồn vinh, tăng cường được nội lực phát huy được thế mạnh ra bên ngoài khiến các nước láng giềng và cả bọn lái buôn phương Tây cũng phải mến phục, kiêng nể.
 Xét theo phép biện chứng “nhân, quả” trong kế thừa và phát tiển thì nhà Nguyễn đã kế thừa được di sản tích cực của ông cha: nghiệp chúa là “nhân”, vương triều Nguyễn là “quả”, không đến nỗi bị “tiên thiên bất túc”. Đó là thuận lợi thứ nhất của sự phát sinh.
2. Thuận lợi thứ hai không kém quan trọng là nhờ có xã hội Đàng Trong phát triển như vậy, nhất là phát triển cả về nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp… nên mới có sản phẩm độc đáo là khởi nghĩa Tây Sơn hùng mạnh đến mức nhanh chóng thanh toán được các thế lực phong kiến già cỗi, cát cứ chia cắt Bắc – Nam (Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn), đập tan được các thế lực ngoại xâm hùng mạnh, như đánh thắng quân Xiêm can thiệp ở phía Nam với chiến thắng Rạch Gầm Xoài Mút lừng danh; quân ThanhXâm lược ở phía Bắ với chiến thắng Thăng Long – Đống Đa lịch sử. Nội lực được tăng cườnng, ngoại lực được phát huy khiến cả triều Thanh hùng hậu của Càn Long lúc đó phải kính nể.
Công lao to lớn mở đường cho sự thống nhất đất nước. Sau bao nhiêu năm nội chiến chia cắt là của Quan Trung Nguyễn Huệ nhưng việc hoàn tất và cũng cố nền thống nhất đó lại được tiến hành tiếp nối từ Gia Long – Nguyễn Ánh đến Minh Mệnh.
Như vậy nếu khởi nghĩa Tây Sơn là “quả” của “nhân” là sự phát triển kinh tế xã hội Đàng Ngoài, thì sự hoàn tất và củng cố nền thống trị của nhà Nguyễn là “quả” do cái “nhân” mở đường thống nhất từ Tây Sơn – Nguyễn Huệ tạo nên.
Không nên coi sự nghiệp thống nhất đất nước là hoàn toàn thuộc về Nguyễn Huệ, cũng như không nên dựa vào hoàn tất và củng cố nền thống nhất của nhà Nguyễn mà coi sự nghiệp thống nhất Việt Nam thế kỷ XVIII – XIX là của nhà Nguyễn để phủ nhận công lao của Tây Sơn. Như vậy mới là công minh lịch sử.
3. Nhưng cần phải làm rõ là: các “chất” của sự nghiệp thống nhất đất nước giữa hai triều đại Tây Sơn và nhà Nguyễn có khác nhau.
- Thống nhất của Tây Sơn là thống nhất đất nước gắn liền với độc lập của dân tộc và toàn vẹn lãnh thỏ. Quang Trung thanh toán sự chia cắt đất nước của Trịnh – Nguyễn đồng thời đập tan âm mưu xâm lược chia cắt lãnh thổ của nước ngoài như mật dụ của vua Càn Long nhà Thanh cho Tôn Sĩ Nghị dã bộc lộ. Ý chí độc lập thống nhất đất nước và giữ toàn vẹn lãnh thổ của Quang Trung mạnh mẽ đến nỗi vua tôi Lê Chiêu Thống khi bị nhà Thanh khước từ sự giúp đỡ khôi phục vương triều Lê đã xin nhà Thanh buộc Quang Trung phải cắt đất cho hai tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên làm địa bàn hậu duệ của lê Triều, nhưng Càn Long không dám làm mà có muốn là cũng không làm được trước ý chí thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ kiên cường của Quang Trung. Thậm chí Nguyễn Huệ còn có hoài bão đòi lại đất lưỡng Quảng.
- Còn thống nhất của Gia Long không chỉ là “quả” của cái “nhân tích cực” do Tây Sơn tạo dựng nên, mà còn là “quả” của cái “nhân tiêu cực” hứa hẹn cắt cảng Hội An và đảo Côn-Lôn cho thực dân Pháp để đổi lấy sự viện trợ của thực dân nhằm diệt Tây Sơn. Việc cho Hoàng tử Cảnh theo Bá Đa Lộc sang Pháp cầu cứu kèm theo việc hứa nhượng đất cho Pháp như trên tuy chưa được thi hành ngay nhưng cũng đã gây mầm mống đại họa cho đất nước2
Tổ tiên qua hàng nghìn năm đấu tranh để giữ gìn từng gang sông tất núi, toàn vẹn non sông, đã không cho phép một ai cắt đất dâng cho kẻ thù. Cái thống nấht của Gia Long nhờ cắt đất dâng cho thực dâng mà có được đã gây mầm chia cắt đất nước – không phải là chia cắt nội bộ như Trịnh – Nguyễn mà là chia cắt ngoại xâm tồn tại lâu dài (Pháp, Mỹ) đau khổ, tệ hại biết chừng nào? Sau này, từ Gia Long đến Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức, tất cả đều ân hận, lo toan giải tỏa lỗi lầm này, khắc phục hậu quả của nó bằng việc sát đạo, đuổi giáo sĩ, hạn chế giao thương với phương Tây…nhưng vẫn không sao khắc phục nỗi. Đây rõ ràng là có tội, như ông cha ta đã từng phê phán rằng: “Rước vo về dày mả tổ”, “Cõng rắn cắn gà nhà”.

II. TRONG GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN

1. Cuộc cải cách hành chính của Minh Mệnh có đóng góp tích cực vào lịch sử dân tộc.

Trong lịch sử xã hội phong kiến Việt Nam, các triều đại Lý, Trần, Lê… từ các vua thứ hai, thứ ba (Thánh Tông, Nhân Tông…) thường có đóng góp tích cực cho triều đại, cho dân tộc, vì còn gần gũi với thời kỳ gian khổ dựng nghiệp. Minh Mệnh là vị vua như tếh, vua thứ hai kế vị Gia Long. Minh Mệnh đã từng theo cha chinh chiến, nếm đủ ngọt bùi cay đắng. Khi lên ngôi báu, Minh Mệnh sớm chăm lo tới củng cố sự nghiệp độc lập và thống nhất đất nước mà Gia Long đã khởi đầu. Cuộc cải cách hành chính của Minh Mệnh là biểu hiện cụ thể của tính tích cực đó.
Trong lịch sử dân tộc ta từ  cải cách hành chính của họ Khúc thế kỷ X đến cải cách hành chính của Lê Thánh Tông thế kỷ XV là sự phát triển cơ bản và tiến lên một bước dài của đất nước. Đến cải cách hành chình lớn thứ ba của Minh Mệnh là cơ bản hơn, có hiệu quả bền vững hơn. Biểu hiện cụ như trong cuộc cải cách hành chính lớn lần thứ tư hiện nay, nhiều cái mà cải cách hành chính Minh Mệnh đạt được, chúng ta vẫn kế thừ và phát huy, như xây dựng và củng cố chính quyền cấp cơ sở xã, thôn và chính quyền cấp tỉnh, huyện…Có lúc ta tiến hành nhập tỉnh, nhập huyện, muốn bỏ cấp xã cũ (làng) hay cấp thôn… nhưng vẫn không thực hiện được.
Mặt tích cực của cuộc cải cách này đã được nhiều công trình nghiên cứu đi sâu, đánh giá cao. Nhưng còn mặt tiêu cực của nó thì chưa được hoàn toàn nhất trí. Tôi cho rằng, Vương triều Nguyễn ra đời vào giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản thế giới và suy tàn của chế độ phong kiến nói chung, giai đoạn đi xuống của chế độ phong kiến Việt Nam. Khủng hoảng xã hội triền miên diễn ra từ Lê mạc đến Nguyện, trong khi đó tàn dư của phương thức sản xuất châu Á cứ tồn đọng dai dẳng. Trước sự kìm hãm của chế độ phong kiến lỗi thời, lạc hậu, mầm móng kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam ra đời nhưng không phát triển được. Trong trạng thái kinh tế xã hội đó thì cải cách hành chính của Minh Mệnh càng thành công trong việc củng cố vương triều Nguyễn bao nhiêu, lại là củng cố cái trì trệ, bảo thủ, lạc hậu của phong kiến bấy nhiêu. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự bất lực, đầu hàng của triều Nguyễn trước cuộc xâm lăng của đế quốc thực dân.
2. Những mặt mạnh, mặt yếu của vương triều Nguyễn 1802-1884
Ngoài cải cách hành chính của Minh Mệnh là tác động chủ quan của nhà Nguyễn tới xã hội thì toàn bộ quá trịnh phát triển suốt hơn 80 năm của thời kỳ độc lập tự chủ (1802-1884) cần được xét trong tổng thể xã hội: của các trình độ kinh tếm văn hóa, xã hội; của giai tầng trí thức, quan lại nông, công, thương, binh… trong đó vua quan nhà Nguyễn chịu trách nhiệm là người chỉ đạo, tức phải thấy rỏ tồn tại khách quan của xã hội tác động tích cực cũng như tiêu cực ngược trở lại tới các vua triều Nguyễn.
Có xem xét như vậy mới khách quan, tránh được mâu thuẫn, như có người phê phán kịch liệt nhà Nguyễn nhưng lại đề cao Nguyễn Công Trứ cả về sự nghiệp khai hoang lấn biển, lẫn sự nghiệp văn thơ. Nhưng Nguyễn Công Trứ đâu có tách rời khỏi triều đình nhà Nguyễn. Ông là người tuyệt đối trung quân, dầu vua Nguyễn có lúc bạc đãi ông như thế nào đi nữa thì ông cung vẫn: “Không quân thần, phu phụ đếch ra người”.
Vậy cái mạnh của triều Nguyễn 1802-1884 ở những chỗ nào ?
Mặt mạnh hay những thành đạt của đất nước trong thời kỳ này ngoài hệ thống hành chính được củng cố qua cải cách của Minh Mệnh như trên đã nói, còn là:
- Phát triển kinh tế xã hội trong chừng mực nhất định, nhất là về nông nghiệp: trị thủy đắp đê phòng lụt, đào kênh khai ngòi, dẫn thủy nhập điền, khẩn hpang ở Bắc, khai thác đất đai màu mỡ ở Nam, khiến của cải xã hội gia tăng, dân số phát triển, góp phần thúc đêỷ thủ công, thương nghiệp phát triển hơn trước.
- Phát triển giáo dục: tăng cường khoa củ, đào tạo và tuyển chọn nhân tài (những tài năng văn hóa, nghệ thuật ngày một nhiều như Nguyễn Công Trứ, Đào Tấn, những nhà văn thơ xuất sắc như Thần Siêu, Thánh Quát…) đều xuất hiện trong giai đoạn này.
-Phát triể vcăn hóa, khoa học, nhất là về lịch sử (Đại Nam thực lục, Đại Nam Hội Điển sử lệ, Việt Sử Thông giám Cương mục, Lịch triều Hiến chương loại chí). Địa lý (như Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam nhất thống toàn đồ…) đều đạt được nhiều thành tựu, nhằn tiếp tục phát huy nền văn hóa, văn hiến Việt Nam.
Về mặt yếu hay những tư tưởng, phong cách, hành động bảo thủ, trì trệ, lạc hậu của nhà Nguyễn được thể hiện ra sao ?
- Về kinh tế thì tô thuế nặng nề, bế quan tỏa cảng, sản xuất chưa phát triển, đời sống nhân dân ít được cải thiện, đói kém xảy ra triền miên, những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ, Phạm Phú Thứ không lọt được vào tai.
- Về chính trị: với cơ chế quản lý theo Tống Nho, sao chép Mãn Thanh cổ hủ, lạc hậu khiến mâu thuẫ xã hội giữa nhân dân với triều đình, giữa giàu và nghèo ngày càng tăng, mâu thuẫn đối kháng có lúc, có nơi diễn ra kịch liệt biểu hiện ở hàng trăm cuộc khởi nghĩa nông dân, tiêu biểu như Nguyễn Hữu Cầu, Phan Bá Vanh…
- Về quân sự: thiếu tinh thần tự lực tự cường, thiếu đoàn kết “vua tôi đồng lòng anh em hòa mục” như thời Trần chống Nguyên, thiếu tinh thần chí cốt giữa quân và tướng (phụ tử chi vinh) như của Trần, Lê. Khi thực dân đến xâm lăng thì chủ hòa, đầu hàng luôn vượt trội chủ chiến. Trong hoàng tộc thì những Hàm Nghi, Duy Tân là “viên ngọc quý nhưng không nhiều; còn những  “Tự Đức” nhu nhược; “Đồng Khánh, Khải Định, Bảo Đại…”tự nguyện làm tay sai cho đế quốc lại nhiều hơn.
Theo những mặt mạnh, mặt yếu kể trên thì vua chúa nhà Nguyễn vừa là tác nhân, vừa là một trong những sản phẩm của xã hội Việt Nam một xã hội đầu thế kỷ XIX chưa thoát khỏi được tầm vóc kinh tế, chính trị, xã hội trung cổ mà chính họ cũng phải chịu trách nhiệm.
Trong 143 năm tồn tại của nhà Nguyễn “công và tội đều có”, chỉ sơ trình bày và xin được tiếp tục đi sâu.




[1] Viện Sử Học