Năm 1775, chúa Nguyễn bị đánh bật khỏi Phú Xuân, chạy vào Gia Định. Hai
năm sau thì chúa Nguyễn Phúc Thuần cùng nhiều triều thần thân tín bị quân Tây
Sơn ha sát; Nguyễn Ánh lúc đó mới 15 tuổi, may mắn trốn thoát. Ngôi chúa bị bỏ
trống 3 năm, mãi đến năm 1780, Nguyễn Ánh mới lên ngôi Vương ở Gia Định, và
xuất hiện trên chính trường Đàng Trong và khu vực như một lực lượng chính chống
chọi với lực lượng Tây Sơn, bảo vệ quyền lợi nhà Nguyễn.
Nguyễn Ánh và RamaI của Xiêm “quen biết” qua việc giải hòa với nhau ở
Campuchia, năm 1871. Triều đình Campuchia xảy ra lục đục,tranh giành ngôi báu,
phe thì cầu cứu vua Xiêm, phe cầu cứu Nguyễn Ánh. Đây là cơ hội tốt để vua
Xiêm, bấy giờ là Phìa Taksin đưa quân sang xâm lược. Hai tướng tài giỏi của
Xiêm là Phìa Chakri và Phìa Sunasin đem 2 vạn quân cùng hoàng tử Intarapitak,
con trai Phìa Taksin, thẳng tiến tới U đông. Phìa Taksin hy vọng sẽ thôn tính
nước Campuchia và đưa con trai mình lên làm vua U đông. Quân đội của Nguyễn Ánh
do Nguyễn Hữu Thụy và Hà Văn Lân cũng đang có mặt ở Campuchia, từ tháng 3 –
1781, theo sự cầu cứu của Nhiếp chính vương Tslaha Mu. SAu một vài chiến thắng
nhỏ với quân Campuchia, quân Xiêm chuẩn bị giao chiến với quân của Nguyễn Ánh
thì nhận được tin triều đình Thônbure có biến. Vợ con của hai tướng bị tống
giam. Tình hình nguy cấp khiến các tướng quân Xiêm phải nghĩ cách cứu vãn tình
thế. Tướng Chakri đã xin găp tướng quân nhà Nguyễn đề nghị giảng hòa và cùng
lui quân “Hữu Thụy đem vài mươi binh đi thẳng vào trại Tiêm (Xiêm). Binh Tiêm
nhìn nhau sợ hãi, kinh ngạc. Chakri mời vào đãi đằng rất hậu rồi đem sự thật
bày tỏ, rượu say, bẻ mũi tên cùng thề. Hữu Thụy nhân đó đem ba bảo khí là Cờ,
Đao, Kiếm tặng rồi về (1,38 – 39).
Tháng 5/1781, theo sự thỏa thuận và ăn thề giữa các tướng Chakri và Hữu
Thụy, quân Xiêm và quân Nguyễn cùng rời khỏi Campuchia (4, 632). Tướng Xiêm về
Thônburi lo dep loạn, còn quân Nguyễn về lo đối phó với quân Tây Sơn đang tấn
công Gia Định. Vì thế Campuchia tạm tránh được nạn binh đao của quân xâm lược.
Về tới Thônburi, Chakri nhanh chóng dẹp được biến loạn, giết chết Phìa Taksin,
cứu vợ con và giành lấy ngôi báu. Năm 1782, tướng Phìa Chkri lên ngôi vua, hiệu
là Ra,a I.
Nguyễn Ánh bị Tây Sơn đánh, phải bỏ chạy sang Xiêm, trong suốt hơn hai
năm lưu vong lận đận ở Băng Kốc (1785 – 1787), được sự giúp đỡ của Rama I và cả
khi đã về nước (1787).
Về sự kiện này sách “Đại Nam Liệt Truyện” ghi rõ: “Mùa xuân năm Giáp
Dần (1784) Thế tổ Nguyễn Phúc Ánh sang nước Xiêm cầu viện” và “vua Xiêm bằng
long, sai Tiếp trở về đường núi, sai tướng Thát Si Đen dẫn thủy binh sang Hà
Tiên ngầm đón vua sang nước họ. Vua nhận được biểu rất mừng. Tướng Xiêm mời vua
sang nước họ…”. Trước đó, đã sai cai cơ Ngô Công Quý rước quốc mẫu cùng cung
quyến rời đảo Thổ Châu…Vua bèn đi một mình sang Xiêm. Bày tôi đi theo có Tôn
Thất Hội, Trương Phúc Giao, Hồ Văn Bôi, Lưu Văn Trung, Nguyễn Văn Trị, Nguyễn
Văn Huân, Nguyễn Văn Tốn (người Chân Lạp), Bùi Văn Khoa, Lê Thương và nội trù
Nguyện Văn Hội..hơn 30 người, quân đi theo cũng vài mươi người (1, 54).
Tháng 3 năm 1784, quan quân Nguyễn Ánh đến Băng Kốc, được vua Rama I,
và triều thần Băng kốc “đón rước, ủy lạo hết lễ”.
Vua Rama I sắp xếp cho Nguyễn Ánh và thuộc hạ ở một khu riêng, ngoại vi
thành Băng Kốc. Khi biết rõ vua Xiêm thực sự cưu mang mình, Nguyễn Ánh mới cho
đón rước mẹ và cung quyến sang đây để tránh sự truy lung của Tây Sơn. Chỉ vài
tuần sau khi tới Băng Kốc, khoảng tháng 4 năm 1784, Nguyễn Anh đã gặp Rama I,
xin đem viện binh về đánh Tây Sơn và được chấp nhận. Một kế hoạch tác chiến cụ
thể được bàn định, 5 vạn quân Xiêm chia 2 đường thủy, bộ, vượt vịnh Xiêm, qua
Campuchia nhanh chóng tiến vào đất Gia Định. Hai tướng Chiêu Thăng và Chiêu
Sương, cháu của Rama I, được cử làm tổng chỉ huy. Riêng Nguyễn Anh được cấp
5000 quân cùng 300 chiến thuyền để phối hợp tác chiến. Đầu tháng 7 năm 1784,
quân Xiêm đến Gia Định. Trong vài trận đầu, quân Xiêm chiếm ưu thế. Chu Văn
Tiếp, cận thần tin cậy nhất của Nguyễn Ánh bị bỏ mạng ở Vĩnh Long. Quân Xiêm ỷ
thế mặc sức ngang ngược, cướp pha rồi sinh chủ quan, kiêu ngạo. Nhưng đến tháng
1 năm 1785, tình thế đã đảo ngược, quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ đích thân chỉ huy
đã đánh cho quân Xiêm thua tơi ta, phải mở đường máu tháo chạy về nước. Bị đại
bại trên khúc song Mỹ Tho ở Rạch Gầm – Xoài Mút, Nguyễn Ánh cùng đám tàn quân,
một lần nữa phải tháo chạy ra ngoài vịnh Xiêm ẩn náu. Và vua Rama I lại cho
quân ra đón về Long Lỳ, gần Băng Kốc (tháng – 1785). Từ sau sự kiện này, Nguyễn
Anh và thuộc hạ lại tiếp tục nương náu ở Long Kỳ hơn 2 năm nửa cho đến tháng 8
– 1787.
Sự thất bại của 5 vạn quân Xiêm làm cho chúng “sợ quân Tây Sơn như sợ
cọp” (1, 65). Đây là một tổn thất lớn về người và của cho Xiêm, trong khi Xiêm
dang cần dồn lực lượng chống Miến Điện. Thế mà khi tàn quân Xiêm trở về hơn 2
tháng Rama I chủ động gợi ý giúp Nguyễn Ánh một lần nữa đánh Tây Sơn. Phải
chăng Rama I muốn hợp tác với Nguyễn Ánh đánh Tây Sơn để chia phần? Nếu Nguyễn
Ánh lấy được Gia Định, tất nhiên Hà Tiên sẽ bị Xiêm khống chế dễ dàng.
Sự kiện tiếp theo là vào năm 1792, thời điểm này cả thế và lực của
Nguyễn Ánh đã mạnh lên. Nhờ viện trợ của Pháp, ông đã chiếm lại được cả Gia
Định từ năm 1789. Bấy giờ Nguyễn Ánh đã có điều kiện thể hiện “lòng biết ơn sự
cưu mang, giúp đỡ của Xiêm” trước đây. Chẳng hạn, tháng 7 – 1790, Nguyễn Ánh đã
cử một phái bộ do Nguyễn Văn Nhân làm Chánh sứ, cùng Lê Tiến Lương, Phó sứ,
sang Xiêm cảm tạ và dâng quà, tỏ ý xem Xiêm là minh chủ. Bởi vì, ngoài những
vật phẩm quý gia, thì cây hoa vàng, hoa bạc (1, 128) là một biểu tượng cụ thể
để minh chứng rằng Nguyễn Ánh tự coi mình như một chư hầu. Nhưng vua Rama I đâu
có cần “cây hoa vàng, hoa bạc” và sự nhún nhường ở nghi thức ngoại giao lân
bang của Nguyễn Ánh, cái mà Rama I cần là một quyền lực thực tế của Xiêm trên
đất Hà Tien và Campuchia. Nhưng thời cơ để Rama I thực hiện ý đồ của mình thật
hiếm hoi. Ngay sau vua Quang Trung mất (9 – 1792). Rama I đã sai sứ mang quốc
thư tới Gia Định, với lời đề nghị Nguyễn Ánh phối hợp cùng quân Xiêm đánh Tây Sơn
để “trả thù cho Vạn Tượng” (vì đầu năm 1792, 5000 quân Tây Sơn do Trần Quang
Diệu chỉ huy, đã tiến công Vạn Tượng, đánh tan lien quân Xiêm – Lào). Nguyễn
Ánh bấy giờ đang chuẩn bị đánh thành Quy Nhơn để tiến ra Bắc. Nếu có thêm viện
binh thì rất thuận lợi. Nhưng Rama I lại không ngần ngai bộc lộ ý đồ “trao,
nhận” có đi có lại của mình là Nguyễn Ánh phải sáp nhập Long Xuyên và Kiên
Giang vào trấn Hà Tiên, để Mạc Công Bính cai quản. Và trả lại Ba Thắc về cho
Campuchia (1, 167).
Trước yêu cầu của Rama I, Nguyễn Ánh củng tỉnh táo, khôn ngoan để giải
quyết, sao cho vừa không mất lòng Rama I, để giữ mối hòa hảo bấy nay, vừa tranh
thủ được sự giúp đỡ của Rama I mà vẫn giữ vững được chủ quyền. Không từ bỏ ý
định can thiệp vào phần lãnh thổ phía Tây Nam của Nguyễn Ánh, và hạn chế quyền
lực của nhà Nguyễn ở Campuchia, tháng 9 – 1793, vua Xiêm đã cho tướng Phi Nhả
Chakri đem 5000 quân tới Nam Vang (Phnom Pênh) và 500 chiến thuyền tới Hà Tiên
để giúp Nguyễn Ánh. Nhưng Nguyễn ánh đã khéo léo từ chối, với cớ là tiết trời
đang có gió mùa Đông Bắc, đi đường thủy không tiện, quân Xiêm phải kéo về (3,
128).
Nguyễn Ánh còn sẵn sàng giúp đỡ Xiêm chống Miến Điện. Năm 1789, khi vua
Xiêm cho sứ sang nhờ Nguyễn Ánh giúp, Nguyễn Ánh đã lập tức cử ngay các tướng
Nguyễn Hoàng Đức và Nguyễn Văn Tưởng đem 7000 quân sĩ và 100 chiến thuyền cấp
tốc đến vịnh Xiêm (1, 128). Thậm chí Nguyễn Ánh còn chủ động giúp Rama I vào
khoảng đầu năm 1797, khi được tin quân Miến Điện cùng đội thủy binh Anh tấn
công Xiêm ở phía Nam, Nguyễn Ánh đã cho quân đánh tan khiến họ không kịp đổ bộ
lên đất Xiêm. Việc xong, Nguyễn Ánh mới cho sứ giả báo tin cho Rama I. Để tạ ơn
này, Rama I đã gửi 5000 quân chư hầu Campuchia và Lào cùng 60 cân thuốc sung,
giúp Nguyễn Ánh tiến ra Bắc vào năm 1799 (1,269). Và sau đó, tháng 2 – 1802,
trước khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế 4 tháng, vua Xiêm còn sai tướng Ốc Nha
Trà Tư đem 5000 quân Xiêm cùng Vạn Tượng giúp Nguyễn Ánh đánh Tây Sơn ở Nghệ An
(2, 12).
Trong thời gian dựa vào sự giúp đỡ của Xiêm, Nguyễn Ánh vẫn lo xây dựng
lực lượng của mình để chống lại Tây Sơn. Sau thất bại ở Rạch Gầm – Xoài Mút,
Nguyễn Ánh lại được vua Xiêm đón về Long Kỳ (gần Băng Kốc) lần thứ hai. Nguyễn
Ánh đã tận dụng cơ hội này để củng cố lực lượng, chiêu mộ quân lính, mua sắm vũ
khí, tàu thuyền, tự túc binh lương, mặc khác còn cho con trai Nguyễn Cảnh, mới
4 tuổi, nhờ lih mục Pineueau de Béhame ( Bá Đa Lộc) đưa sang Pháp cầu viện.
Quan hệ giữa Nguyễn Ánh và Rama I lúc này rất gắn bó, thân thiện. Nguyễn Ánh đã
“đền ơn” Rama I bằng việc thân chinh cùng các tướng lĩnh Việt và Xiêm ra trận
đánh Miến Điện và giành thắng lợi, lại còn gả em họ là công chúa Ngọc Thông cho
Rama I làm phi. Đồng thời Nguyễn Ánh cũng khéo léo từ chối sự giúp đỡ của Xiêm
để tự mình đánh Tây Sơn.
Đến cuối tháng 7 – 1787, khi nghe tin Nguyễn Lữ đã rút quân khỏi Gia
Định về Quy Nhơn giúp Nguyễn Nhạc chống lại Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh đã cấp tốc
bí mật rời Băng Kốc về nước đầu tháng 8 – 1787.
Mối thiện cảm giữa Nguyễn Ánh và vua Xiêm còn duy trì dưới thời Hoàng
Đến Gia Long (1802 – 1819).
Điểm lại những sự kiện chính trong mối quan hệ giữa Nguyễn Ánh và vua
Xiêm Rama I, trong những năm Nguyễn Ánh còn lưu vong, tá túc ở Băng Kốc, cho
đến khi trở về nước, từng bước chiến thắng Tây Sơn, rồi lên ngôi Hoàng Đế,
chúng ta thấy đây là một mối quan hệ có những điểm khá độc đáo.
Hai lần Nguyễn Ánh gặp hoạn nạn thì cả hai lần vua Rama I đều sẵn lòng
cưu mang. Trong thời kỳ còn ở Băng Kốc và cả khi đã trở về nước, từng bước đẩy
lùi Tây Sơn, Nguyễn Ánh vẫn thường xuyên nhận được sự giúp đỡ của Rama I về quân
sự, và các tặng vật có giá trị cho việc quân cơ, như voi dực, diêm tiêu, thuyền
chiếm vv…Tướng và quân Xiêm cùng quân chư hầu Vạn Tượng, Campuchia nhiều lần
được Rama I điều sang giúp Nguyễn Ánh đánh Tây Sơn. Rama I còn từ chối sự liên
kết với Tây Sơn bỏ mặc Nguyễn Ánh. Để đền ơn khi có cơ hội, Nguyễn Ánh đã giúp
lại Rama I một cách xứng đáng, kể cả việc ông đích thân cầm quân giúp Xiêm
chống Miến Điện. Nguyễn Ánh thường xuyên sai sứ mang lễ vật quý sang tạ ơn Rama
I, và còn mua cả gạo tăng để vua Xiêm cứu đói cho dân khi bị mất mùa. Trong
thời kỳ đầu, chỉ là mối quan hệ cá nhân giữa Rama I và Nguyễn Ánh, nhưng từ khi
Nguyễn Ánh trở về, lấy được Gia Định, lên ngôi vua thì mối quan hệ đó đã dần
trở thành mối quan hệ giữa hai nhà nước, hai quốc gia cùng chung mối quan tâm ở
một khu vực.
Từ nửa sau những năm 20 của thế kỷ XIX, khi Rama I qua đời, mối quan hệ
tốt đẹp xưa kia đã phai nhạt dần theo thời gian. Mối quan hệ giữa Minh Mệnh và
Rama I cũng trở nên căng thẳng từ sau khởi nghĩa Chậu A Nụ. Vùng đệm Campuchia
và Lào luôn là mảnh đất nóng bỏng mà triều đình Nguyễn và Rama I tranh giành
ảnh hưởng, nhiều cuộc đụng đột quyết liệt xảy ra.
![]() |
Tài liệu tham khảo:
(1) Đại
Nam
thực lục chính biên. Tập II, NXB KHXH, Hà Nội, 1963.
(2) Đại
Nam
thục lục chính biên, tập III, NXB Sử học, Hà NỘi, 1963.
(3) Quốc
sử quán triều Nguyễn, Đại Nam
liệt truyện, tập II, NXB Thuận Hóa, Huế, 1993.
(4) DGE
Hall: Lịch sử Đông Nam Á, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.
(5) Nguyễn
Khắc Thuần: Thế thứ các triều vua Việt Nam , NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997.
(6) Lê
Văn Quang: Lịch sử vương quốc Thái Lan, NXB TPHCM, 1995.
(7) Vũ Dương Ninh: Vương quốc Thái Lan, lịch sử và hiện
đại, Đại học Tổng hợp Hà Nội, 1990.
(8) Đặng Văn Chương: Vương quốc Xiêm và mối quan hệ với
Đàng Trong và nhà Nguyễn từ 1782 đến 1846 – Luận văn Thạc sĩ trường ĐHSP Hà
Nội, 1995.
(9) Kỷ yếu hội thảo khoa học Nam Bộ và Nam Trung Bộ. “Những
vấn đề lịch sử thế kỷ XVII – XIX” Đại học sư phạm Thành Phố Hồ Chí Minh (5 –
2002).
(10) Smit Snuckarn an Kennon Breaksela: A Culture in Search
of Survival the Phuan of ThaiLand anh Laos . Yale Centre for International
anh Area Studies. New Haven (USA ) 1998.
No comments:
Post a Comment