Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng đế lấy niên hiệu Gia Long, mở đầu
cho sự thiết lập nền thống trị của vương
triều Nguyễn. Việc Gia Long lên nắm chính quyền là nhờ sự ủng hộ và giúp đỡ của
ngưới Pháp. Thế nhưng sau khi lên nắm chính quyền Gia Long lại tìm mọi cách để
loại trừ ảnh hưởng của người Pháp ra khỏi Việt Nam . Tuy nhiên, Gia Long không dễ
dàng gạt bỏ mọi ảnh hưởng của các thừa sai Thiên chúa giáo và người Pháp trong
đời sống tinh thần của một sồ cư dân Việt Nam . Vì vậy, phương sách mà Gia
Long sử dụng trong suốt thời gian trị vì là cố gắng giữ được mối quan hệ “hữu
hảo” với Pháp trong khả năng cho phép. Điều này được thể hiện qua việc Gia Long
giữ lại một vài người làm quan trong triều như Jean Baptise Chaigneau, Philippe
Vannier, De Forans, Despiau. Đồng thời triều Nguyễn còn cho phép Pháp thiết lập
tòa lãnh sự quán ở Huế vào năm 1805 cùng với việc thành lập nhà công quán để
khoản tiếp các thương gia phương Tây. Trong quan hệ với Pháp, Gia Long cũng chỉ
giới hạn trong phạm vi buôn bán thương mại. Và mối quan hệ này chỉ được nối lại
sau khi Napoleon bị thất bại tại Waterloo
(18 – 6 – 1815) và Louis XVIII lên trị vì. Sở dĩ có tình trạng trên là do thời
kỳ Napoleon nắm quyền đang tiến hành chiến tranh với các nước châu Âu nên không
có điều kiện mở rộng ảnh hưởng của mình sang các nước phương Đông, trong đó có
Việt Nam .
Sau khi chiến tranh ở châu Âu kết thúc quan hệ giữa Pháp và Việt Nam
lại được tiếp tục. Một số nhà buôn Pháp ở Bordeaux
như Baguerie, Stuttenberg và Philippon đã phái các thuyền buôn đến Việt Nam
buôn bán vào những năm 1817 – 1819. Năm 1817, hai tàu La Paix và Henri tới buôn
bán ở Đà Nẵng và được miễn thuế nhập cảng. Năm 1919, tàu Henri lại sang Việt Nam
lần thứ hai cùng với tàu Larose. Lần này họ đã được cấp phép buôn bán và được
dành sự ưu đãi trong công việc buôn bán. Hai tàu này đã bán hết toàn bộ hàng
hóa của mình và mua hàng hóa ở Việt Nam trở về Pháp như tơ, đường, trà,
bạc nén…
Trong quan hệ buôn bán với Pháp, Gia Long cũng chỉ hạn chế trong một
phạm vi nhất định nhằm phục vụ cho quyền lợi của vương triều Nguyễn, cũng như
nhằm bảo toàn “chủ quyền dân tộc”. Việc Gia Long dựa vào các nước phương Tây để
mở các xưởng đúc sung, xây dựng thành lũy và đóng tàu không nhằm ngoài mục đích
nói trên. Còn nếu như quan hệ giữa Pháp với triều Nguyễn vượt khỏi giới hạn cho
phép thì Gia Long khước từ. Năm 1817, khi chiến hạm Cybèle cập bến Đà Nẵng và
liên lạc với những đại diện Pháp ở Huế (Chaigneau và Vainnier) họ nhờ vận động
để được tiếp kiến với Gia Long nhưng Gia Long lấy cớ phái viên nước Pháp không
có quốc thư nên không cho gặp.
Rõ ràng là ngay sau khi lên nắm quyền Gia Long đã thực thi chính sách
ngoại giao khá thận trọng với Pháp nhằm hạn chế tới mức tối đa sự can thiệp của
Pháp vào công việc nội bộ của Việt Nam . Điều đó đã làm cho quan hệ
giữa triều Nguyễn với nước Pháp thời Gia Long còn giữ được hòa khí tương đối
thân thiện. Tuy nhiên, chính sách ngoại giao hai mặt vừa “mở cửa” để cho thương
nhân Pháp giao lưu buôn bán nhưng lại vừa “đóng cửa” để ngăn chặn sự xâm nhập
của thực dân Pháp đã phản ánh sự mâu thuẫn trong bản thân chính sách đối ngoại
của triều Nguyễn.
Thời kỳ từ Minh Mệnh (1820 – 1840) tình hình quan hệ giữa Việt Nam và
Pháp có những thay đổi.
Trong thời kỳ này, quan hệ giữa triều Nguyễn với Pháp bắt đầu căng
thẳng. Thực ra, sự căn thẳng trong quan hệ giữa triều Nguyễn với thực dân Pháp
có nguyên nhân sâu xa từ thời kỳ Gia Long. Việc thực thi chính sách đối ngoại
hai mặt của Gia Long trong những năm trị vì thực chất là để tìm kế hoãn binh.
Khi điều kiện cho phép, Gia Long sẵng sang cắt đứt quan hệ với Pháp. Việc Gia
Long chọn Hoàng tử Đảm là người kế vị ngôi vua thay hoàng tử Cảnh là bằng chứng
xác thực cho ý muốn đoạn tuyệt của Gia Long đối với thực dân Pháp. Để biện minh
cho hành động trên, Gia Long đã giải thích: “Khi người ta chết mà còn để lại
những món nợ trên đời thì chủ nợ thường tìm đến con mình chứ không phải cháu
minh. Vì vậy, trẫm không thấy sai trái khi chọn một đứa con mà không chọn một
đứa cháu”. Thực chất của vấn đề là ở chỗ Minh Mệnh là người sớm bộc lộ những tư
tưởng bài ngoại nên có thể đảm đương được trách nhiệm mà Gia Long giao phó.
Sau khi Gia Long mất, ý đồ của thực dân Pháp đối với Việt Nam
ngày càng bộc lộ một cách rõ nét. Đứng trước tình hình đó, Minh Mệnh một mặt
chủ trương hạn chế và ngăn chặn sự xâm nhập của thực dân Pháp nhưng đồng thời
một mặt khác tăng cường sự phòng thủ của đất nước. Năm 1819 Chaigneau xin phép
về nước nghỉ 3 năm và đến năm 1821, trở lại Việt Nam với tư cách là quan chức
lãnh sự của Pháp trình quốc thư yêu cầu thông thương với Việt Nam. Minh Mệnh đã
đón tiếp Chaigneau một cách trọng thị nhưng từ chối việc ký kết một hiệp ước
thương mại. Tuy nhiên xét trên phương diện quan hệ giao lưu buôn bán thì Minh
Mệnh lại chủ trương mọi quốc gia đều có quyền “bình đẳng” nếu như tuân thủ pháp
luật của Việt Nam. Trong vấn đề này Minh Mệnh chỉ rõ: “Việc thương mại trong
nước của chúng tôi đã có những luật lệ cụ thể qui định, thương nhân các nước
đều có bổn phận tuân theo”. Như vậy cũng giống như Gia Long. Minh Mệnh không
chống hẳn việc giao thương nếu như việc giao thương không làm ảnh hưởng đến an
ninh chủ quyền của đất nước. Trong vấn đề này Buttanhgiơ đã nhận xét: “Chính
sách của Minh Mệnh về thực chất chỉ là thực hiện đường lối chính trị cơ bản của
vua Gia Long mà thôi”.
Bắt đầu từ năm 1825 trở đi thực dân Pháp tăng cường xâm nhập vào Việt Nam
dưới mọi hình thức trong đó có hình thức truyền đạo. Hoạt động truyền đạo của
các giáo sĩ Pháp đã làm cho quan hệ giữa Minh Mệnh và Pháp ngày càng trở nên
căng thẳng. Theo Minh Mệnh thì “đạo phương Tây là tà đạo làm mê lòng người và
hủy hoại phong tục cho nên phải nghiêm cấm để dân noi theo đạo chính”. Trong
thời gian Minh Mệnh trị vì, một loạt các Dụ cấm đạo đã được ban hành, một số
giáo sĩ bị giết. Ngoài ra, Minh Mệnh còn ra lệnh cho các quan lại ở địa phương
tăng cường kiểm soát các vùng duyên hải để đề phòng các hoạt động truyền đạo
của giáo sĩ. Đồng thời với điều đó, Minh Mệnh thực thi chính sách cứng rắn bằng
cách đóng cửa tòa lãnh sự Pháp 1830. Quan hệ giữa triều Nguyễn với Pháp thời kỳ
Minh Mệnh vì thế trở nên băng giá. Dẫu rằng, vào năm 1840, Minh Mệnh tìm cách
cải thiện mối quan hệ bằng cách cử phái bộ 4 người qua Pháp bao gồm tư vụ Trần
Viết Xương, thư lại Tôn Thất Thuyết và 2 viên thông ngôn đến Pari để điều đình
và bàn về việc ký hiệp ước thương mại, song sự việc không thành.
Đến những năm 40 của thế kỷ XIX, tình hình quốc tế đã chuyển biến theo
chiều hướng mới hoàn toàn bất lợi cho quan hệ giữa Việt Nam với Pháp. Tình hình đó đã túc
đẩy Thiệu Trị bám chặt các nguyên tắc cố hữu mà Gia Long đã “lựa chọn” và Minh
Mệnh đã “triển khai”. Do áp lực phương Tây ngày càng lớn nên Thiệu Trị tỏ ra
thận trọng hơn. Mọi yêu cầu xin thong thương của Pháp vào các năm 1841, 1845
đều bị Thiệu Trị khước tư. Trong khi đó các giáo sĩ Pháp ngày càng tăng cường
các hoạt động truyền đạo làm nguy hại đến an ninh đất nước. Đứng trước tình
hình đó, vua Thiệu Trị, một mặt ra lệnh cấm người ngoại quốc vào giảng đạo
nhưng đồng thời một mặt khác tiến hành phòng bị những nơi hiểm yếu như Hải
Phòng, Thị Nại, Côn Lôn và Phú Quốc.
Cuối năm 1847 Thiệu Trị mất. Tự Đức lên nối ngôi và tiếp tục thực hiện
chính sách như các đời vua trước. Tuy nhiên, đến đời Tự Đức do hoạt động xâm
nhập của thực dân Pháp ngày càng ráo riết hơn nên Tự Đức thực thi chính sách
cứng rắn. Bên cạnh việc cắt đứt mọi quan hệ thông thương với thực dân Pháp, Tự
Đức còn ban hành một loạt các chỉ dụ cấm đạo vào các năm 1848, 1851, và 1857.
Với các việc làm trên, Tự Đức hy vọng sẽ ngăn chặn được lại can thiệp của Pháp,
bảo toàn được an ninh quốc và chủ quyền dân tộc. Song thực tế lại diễn ra hoàn
toàn bất lợi cho Việt Nam .
Một loạt các hành động đe dọa và can thiệp của thực dân Pháp diễn ra vào các
năm 1851, 1856 và 1857 đã đặt Việt Nam trước nguy cơ bị xâm lược.
Ngày 1 – 9 – 1858, liên quân Pháp – Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng, mở
đầu cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam .
Như vậy, trong quan hệ với thực dân Pháp, giai đoạn 1802 – 1858, triều
Nguyễn đã tỏ ra khá lung túng trong việc vừa muốn mở cửa để hòa nhập vào thị
trường của thế giới, vừa muốn đóng cửa để bảo toàn chủ quyền dân tộc. Chính
sách hai mặt của triều Nguyễn trong việc vừa mở cửa cho phép các thương nhân
Pháp vào buôn bán, vừa đóng cửa để ngăn chặn sự xâm nhập của thực dân Pháp, đã
làm cho quan hệ ban giao giữa triều Nguyễn với thực dân Pháp rơi vào tình trạng
bế tác. Giống như các nước phương Đông cùng thời, triều Nguyễn vẫn có nhu cầu
mở cửa, song điểm khác so với các nước khác là việc mở cửa của triều Nguyễn
phải đảm bảo hai điều kiện sau đây:
Thứ nhất, chỉ mở cửa không được phép đạt đến việc ký kết hiệp ước
thương mại.
Thứ hai, chỉ mở một số cửa và về sau chỉ mở cửa duy nhất để tiện kiểm
soát nhằm bảo đảm an ninh và chủ quyền dân tộc.
Xuất phát từ ý thức bảo vệ ngai vàng và của chế độ phong kiến, gắn liền
với bảo vệ an ninh của đất nước, các vị vua triều Nguyễn đẽ thể hiện tính chất
hai mặt trong quan hệ với thực dân Pháp
giai đoạn 1802 – 1858. Đây là một cố gắng rất lớn của các vị vua đầu triều
Nguyễn. Song mâu thuẫn trong việc tiến hành chính sách “đóng cửa” và “mở cửa”
đã đẩy triều Nguyễn đứng trước nguy thách thức cự kỳ lớn lao là phải đối mặt
với áp lực ngày càng tăng của thực dân Pháp, để cuối cùng phải đương đầu với sự
xâm lược của thực dân Pháp vào năm 1858.
Những nỗ lực trong việc thực thi chính sách hai mặt của các vị vua
triều Nguyễn rốt cuộc đã không cứu vãn được vấn đề chủ quyền của dân tộc để
cuối cùng đất nước bị rơi vào ách thống trị của chủ nghĩa thực dân Pháp vào năm
1884.

Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Thế Anh: Kinh tế xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn. NXB
Lửa Thiêng, sài Gòn, 1971.
2. Trần Văn Giàu, Đinh Xuân Lâm…Lịch sử cận đại Việt Nam . NXB Đại học và trung học
chuyên nghiệp, 1961.
3. Nguyễn Phan Quang: Lịch sử Việt Nam 1427 – 1858, quyển 2, tập II,
1976.
4. Quốc sử quán Triều Nguyễn: Minh Mệnh chính yếu, tập III, NXB Thuận
Hóa, Huế, 1993.
5. J.P.Faivre: Sự bành trướng của Pháp từ 1802 đến 1842, Paris , 1953.
6. Yóshiriru Tsuboi: Nước Đại Nam
đối diện với Pháp và Trung Hoa, Hội sử học Việt Nam , Hà Nội, 1992.
Tritanium-Stacked Flask - Titanium Art
ReplyDeleteTritanium-Stacked Flask is an extremely rare flask. A Flask is a flask with a top flask that has a top titanium teeth dog flask titanium pan design, thinkpad x1 titanium a top flask design, Rating: 4.6 · 7 reviews · titanium watch band $24.00 · In stock ridge titanium wallet
g162n8wwdtn785 dog dildo,black dildos,sex chair,horse dildo,bulk sex dolls,realistic sex dolls,custom sex doll,wholesale sex toys,realistic dildo f854u8dspjs765
ReplyDelete