Wednesday, June 15, 2016

CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA TRIỀU NGUYỄN TRONG QUAN HỆ VỚI THỰC DÂN PHÁP GIAI ĐOẠN 1802 – 1858



PGS. TS. Nguyễn văn Tậnß



Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng đế lấy niên hiệu Gia Long, mở đầu cho sự  thiết lập nền thống trị của vương triều Nguyễn. Việc Gia Long lên nắm chính quyền là nhờ sự ủng hộ và giúp đỡ của ngưới Pháp. Thế nhưng sau khi lên nắm chính quyền Gia Long lại tìm mọi cách để loại trừ ảnh hưởng của người Pháp ra khỏi Việt Nam. Tuy nhiên, Gia Long không dễ dàng gạt bỏ mọi ảnh hưởng của các thừa sai Thiên chúa giáo và người Pháp trong đời sống tinh thần của một sồ cư dân Việt Nam. Vì vậy, phương sách mà Gia Long sử dụng trong suốt thời gian trị vì là cố gắng giữ được mối quan hệ “hữu hảo” với Pháp trong khả năng cho phép. Điều này được thể hiện qua việc Gia Long giữ lại một vài người làm quan trong triều như Jean Baptise Chaigneau, Philippe Vannier, De Forans, Despiau. Đồng thời triều Nguyễn còn cho phép Pháp thiết lập tòa lãnh sự quán ở Huế vào năm 1805 cùng với việc thành lập nhà công quán để khoản tiếp các thương gia phương Tây. Trong quan hệ với Pháp, Gia Long cũng chỉ giới hạn trong phạm vi buôn bán thương mại. Và mối quan hệ này chỉ được nối lại sau khi Napoleon bị thất bại tại Waterloo (18 – 6 – 1815) và Louis XVIII lên trị vì. Sở dĩ có tình trạng trên là do thời kỳ Napoleon nắm quyền đang tiến hành chiến tranh với các nước châu Âu nên không có điều kiện mở rộng ảnh hưởng của mình sang các nước phương Đông, trong đó có Việt Nam. Sau khi chiến tranh ở châu Âu kết thúc quan hệ giữa Pháp và Việt Nam lại được tiếp tục. Một số nhà buôn Pháp ở Bordeaux như Baguerie, Stuttenberg và Philippon đã phái các thuyền buôn đến Việt Nam buôn bán vào những năm 1817 – 1819. Năm 1817, hai tàu La Paix và Henri tới buôn bán ở Đà Nẵng và được miễn thuế nhập cảng. Năm 1919, tàu Henri lại sang Việt Nam lần thứ hai cùng với tàu Larose. Lần này họ đã được cấp phép buôn bán và được dành sự ưu đãi trong công việc buôn bán. Hai tàu này đã bán hết toàn bộ hàng hóa của mình và mua hàng hóa ở Việt Nam trở về Pháp như tơ, đường, trà, bạc nén…
Trong quan hệ buôn bán với Pháp, Gia Long cũng chỉ hạn chế trong một phạm vi nhất định nhằm phục vụ cho quyền lợi của vương triều Nguyễn, cũng như nhằm bảo toàn “chủ quyền dân tộc”. Việc Gia Long dựa vào các nước phương Tây để mở các xưởng đúc sung, xây dựng thành lũy và đóng tàu không nhằm ngoài mục đích nói trên. Còn nếu như quan hệ giữa Pháp với triều Nguyễn vượt khỏi giới hạn cho phép thì Gia Long khước từ. Năm 1817, khi chiến hạm Cybèle cập bến Đà Nẵng và liên lạc với những đại diện Pháp ở Huế (Chaigneau và Vainnier) họ nhờ vận động để được tiếp kiến với Gia Long nhưng Gia Long lấy cớ phái viên nước Pháp không có quốc thư nên không cho gặp.
Rõ ràng là ngay sau khi lên nắm quyền Gia Long đã thực thi chính sách ngoại giao khá thận trọng với Pháp nhằm hạn chế tới mức tối đa sự can thiệp của Pháp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Điều đó đã làm cho quan hệ giữa triều Nguyễn với nước Pháp thời Gia Long còn giữ được hòa khí tương đối thân thiện. Tuy nhiên, chính sách ngoại giao hai mặt vừa “mở cửa” để cho thương nhân Pháp giao lưu buôn bán nhưng lại vừa “đóng cửa” để ngăn chặn sự xâm nhập của thực dân Pháp đã phản ánh sự mâu thuẫn trong bản thân chính sách đối ngoại của triều Nguyễn.
Thời kỳ từ Minh Mệnh (1820 – 1840) tình hình quan hệ giữa Việt Nam và Pháp có những thay đổi.
Trong thời kỳ này, quan hệ giữa triều Nguyễn với Pháp bắt đầu căng thẳng. Thực ra, sự căn thẳng trong quan hệ giữa triều Nguyễn với thực dân Pháp có nguyên nhân sâu xa từ thời kỳ Gia Long. Việc thực thi chính sách đối ngoại hai mặt của Gia Long trong những năm trị vì thực chất là để tìm kế hoãn binh. Khi điều kiện cho phép, Gia Long sẵng sang cắt đứt quan hệ với Pháp. Việc Gia Long chọn Hoàng tử Đảm là người kế vị ngôi vua thay hoàng tử Cảnh là bằng chứng xác thực cho ý muốn đoạn tuyệt của Gia Long đối với thực dân Pháp. Để biện minh cho hành động trên, Gia Long đã giải thích: “Khi người ta chết mà còn để lại những món nợ trên đời thì chủ nợ thường tìm đến con mình chứ không phải cháu minh. Vì vậy, trẫm không thấy sai trái khi chọn một đứa con mà không chọn một đứa cháu”. Thực chất của vấn đề là ở chỗ Minh Mệnh là người sớm bộc lộ những tư tưởng bài ngoại nên có thể đảm đương được trách nhiệm mà Gia Long giao phó.
Sau khi Gia Long mất, ý đồ của thực dân Pháp đối với Việt Nam ngày càng bộc lộ một cách rõ nét. Đứng trước tình hình đó, Minh Mệnh một mặt chủ trương hạn chế và ngăn chặn sự xâm nhập của thực dân Pháp nhưng đồng thời một mặt khác tăng cường sự phòng thủ của đất nước. Năm 1819 Chaigneau xin phép về nước nghỉ 3 năm và đến năm 1821, trở lại Việt Nam với tư cách là quan chức lãnh sự của Pháp trình quốc thư yêu cầu thông thương với Việt Nam. Minh Mệnh đã đón tiếp Chaigneau một cách trọng thị nhưng từ chối việc ký kết một hiệp ước thương mại. Tuy nhiên xét trên phương diện quan hệ giao lưu buôn bán thì Minh Mệnh lại chủ trương mọi quốc gia đều có quyền “bình đẳng” nếu như tuân thủ pháp luật của Việt Nam. Trong vấn đề này Minh Mệnh chỉ rõ: “Việc thương mại trong nước của chúng tôi đã có những luật lệ cụ thể qui định, thương nhân các nước đều có bổn phận tuân theo”. Như vậy cũng giống như Gia Long. Minh Mệnh không chống hẳn việc giao thương nếu như việc giao thương không làm ảnh hưởng đến an ninh chủ quyền của đất nước. Trong vấn đề này Buttanhgiơ đã nhận xét: “Chính sách của Minh Mệnh về thực chất chỉ là thực hiện đường lối chính trị cơ bản của vua Gia Long mà thôi”.
Bắt đầu từ năm 1825 trở đi thực dân Pháp tăng cường xâm nhập vào Việt Nam dưới mọi hình thức trong đó có hình thức truyền đạo. Hoạt động truyền đạo của các giáo sĩ Pháp đã làm cho quan hệ giữa Minh Mệnh và Pháp ngày càng trở nên căng thẳng. Theo Minh Mệnh thì “đạo phương Tây là tà đạo làm mê lòng người và hủy hoại phong tục cho nên phải nghiêm cấm để dân noi theo đạo chính”. Trong thời gian Minh Mệnh trị vì, một loạt các Dụ cấm đạo đã được ban hành, một số giáo sĩ bị giết. Ngoài ra, Minh Mệnh còn ra lệnh cho các quan lại ở địa phương tăng cường kiểm soát các vùng duyên hải để đề phòng các hoạt động truyền đạo của giáo sĩ. Đồng thời với điều đó, Minh Mệnh thực thi chính sách cứng rắn bằng cách đóng cửa tòa lãnh sự Pháp 1830. Quan hệ giữa triều Nguyễn với Pháp thời kỳ Minh Mệnh vì thế trở nên băng giá. Dẫu rằng, vào năm 1840, Minh Mệnh tìm cách cải thiện mối quan hệ bằng cách cử phái bộ 4 người qua Pháp bao gồm tư vụ Trần Viết Xương, thư lại Tôn Thất Thuyết và 2 viên thông ngôn đến Pari để điều đình và bàn về việc ký hiệp ước thương mại, song sự việc không thành.
Đến những năm 40 của thế kỷ XIX, tình hình quốc tế đã chuyển biến theo chiều hướng mới hoàn toàn bất lợi cho quan hệ giữa Việt Nam với Pháp. Tình hình đó đã túc đẩy Thiệu Trị bám chặt các nguyên tắc cố hữu mà Gia Long đã “lựa chọn” và Minh Mệnh đã “triển khai”. Do áp lực phương Tây ngày càng lớn nên Thiệu Trị tỏ ra thận trọng hơn. Mọi yêu cầu xin thong thương của Pháp vào các năm 1841, 1845 đều bị Thiệu Trị khước tư. Trong khi đó các giáo sĩ Pháp ngày càng tăng cường các hoạt động truyền đạo làm nguy hại đến an ninh đất nước. Đứng trước tình hình đó, vua Thiệu Trị, một mặt ra lệnh cấm người ngoại quốc vào giảng đạo nhưng đồng thời một mặt khác tiến hành phòng bị những nơi hiểm yếu như Hải Phòng, Thị Nại, Côn Lôn và Phú Quốc.
Cuối năm 1847 Thiệu Trị mất. Tự Đức lên nối ngôi và tiếp tục thực hiện chính sách như các đời vua trước. Tuy nhiên, đến đời Tự Đức do hoạt động xâm nhập của thực dân Pháp ngày càng ráo riết hơn nên Tự Đức thực thi chính sách cứng rắn. Bên cạnh việc cắt đứt mọi quan hệ thông thương với thực dân Pháp, Tự Đức còn ban hành một loạt các chỉ dụ cấm đạo vào các năm 1848, 1851, và 1857. Với các việc làm trên, Tự Đức hy vọng sẽ ngăn chặn được lại can thiệp của Pháp, bảo toàn được an ninh quốc và chủ quyền dân tộc. Song thực tế lại diễn ra hoàn toàn bất lợi cho Việt Nam. Một loạt các hành động đe dọa và can thiệp của thực dân Pháp diễn ra vào các năm 1851, 1856 và 1857 đã đặt Việt Nam trước nguy cơ bị xâm lược.
Ngày 1 – 9 – 1858, liên quân Pháp – Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng, mở đầu cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Như vậy, trong quan hệ với thực dân Pháp, giai đoạn 1802 – 1858, triều Nguyễn đã tỏ ra khá lung túng trong việc vừa muốn mở cửa để hòa nhập vào thị trường của thế giới, vừa muốn đóng cửa để bảo toàn chủ quyền dân tộc. Chính sách hai mặt của triều Nguyễn trong việc vừa mở cửa cho phép các thương nhân Pháp vào buôn bán, vừa đóng cửa để ngăn chặn sự xâm nhập của thực dân Pháp, đã làm cho quan hệ ban giao giữa triều Nguyễn với thực dân Pháp rơi vào tình trạng bế tác. Giống như các nước phương Đông cùng thời, triều Nguyễn vẫn có nhu cầu mở cửa, song điểm khác so với các nước khác là việc mở cửa của triều Nguyễn phải đảm bảo hai điều kiện sau đây:
Thứ nhất, chỉ mở cửa không được phép đạt đến việc ký kết hiệp ước thương mại.
Thứ hai, chỉ mở một số cửa và về sau chỉ mở cửa duy nhất để tiện kiểm soát nhằm bảo đảm an ninh và chủ quyền dân tộc.
Xuất phát từ ý thức bảo vệ ngai vàng và của chế độ phong kiến, gắn liền với bảo vệ an ninh của đất nước, các vị vua triều Nguyễn đẽ thể hiện tính chất hai mặt  trong quan hệ với thực dân Pháp giai đoạn 1802 – 1858. Đây là một cố gắng rất lớn của các vị vua đầu triều Nguyễn. Song mâu thuẫn trong việc tiến hành chính sách “đóng cửa” và “mở cửa” đã đẩy triều Nguyễn đứng trước nguy thách thức cự kỳ lớn lao là phải đối mặt với áp lực ngày càng tăng của thực dân Pháp, để cuối cùng phải đương đầu với sự xâm lược của thực dân Pháp vào năm 1858.
Những nỗ lực trong việc thực thi chính sách hai mặt của các vị vua triều Nguyễn rốt cuộc đã không cứu vãn được vấn đề chủ quyền của dân tộc để cuối cùng đất nước bị rơi vào ách thống trị của chủ nghĩa thực dân Pháp vào năm 1884.




 



Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Thế Anh: Kinh tế xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn. NXB Lửa Thiêng, sài Gòn, 1971.
2. Trần Văn Giàu, Đinh Xuân Lâm…Lịch sử cận đại Việt Nam. NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp, 1961.
3. Nguyễn Phan Quang: Lịch sử Việt Nam 1427 – 1858, quyển 2, tập II, 1976.
4. Quốc sử quán Triều Nguyễn: Minh Mệnh chính yếu, tập III, NXB Thuận Hóa, Huế, 1993.
5. J.P.Faivre: Sự bành trướng của Pháp từ 1802 đến 1842, Paris, 1953.
6. Yóshiriru Tsuboi: Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, Hội sử học Việt Nam, Hà Nội, 1992.




ß Đại học Khoa Học Huế

2 comments:

  1. Tritanium-Stacked Flask - Titanium Art
    Tritanium-Stacked Flask is an extremely rare flask. A Flask is a flask with a top flask that has a top titanium teeth dog flask titanium pan design, thinkpad x1 titanium a top flask design,  Rating: 4.6 · ‎7 reviews · titanium watch band ‎$24.00 · ‎In stock ridge titanium wallet

    ReplyDelete