Wednesday, June 15, 2016

NƯỚC PHÁP TRONG THỜI GIAN CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC VIỆT NAM (1858 – 1885)


TS. Đặng Thanh Toánß


Trong xu thế phát triển của lịch sử loài người, mối quan hệ giữa các nước ngày càng xích lại gần nhau. Chủ nghĩa tư bản thắng lợi trên phạm vi thế giới làm cho mối quan hệ này càng chặt chẽ hơn. Khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta thì chủ nghĩa tư bản ở châu Âu đã bước sang giai đoạn đế quốc. Vì vậy, muốn hiểu rõ nhiều vấn đề liên quan đến việc Pháp xâm lược Việt Nam không thể không tìm hiểu bối cảnh lịch sử nước Pháp lúc bấy giờ.
Giới sử học Việt Nam lâu nay tranh luận các vấn đề: “Việt Nam rơi vào tay thực dân Pháp năm 1885 có phải là tất yếu hay không?”, “Trách nhiệm nhà Nguyễn để mất nước đến mức độ nào?”.
Để góp thêm ý kiến về vấn đề này, chúng ta hãy trở lại tìm hiểu nước Pháp trong thời gian cuộc chiến tranh xâm lược xẩy ra.
Trên thế giới, sau các cuộc cách mạng 1848 – 1849 ở châu Âu, chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ và trở thành hệ thống thế giới. Quy luật phát triển không đều của CNTB đã làm thay đổi nhanh chóng tương quan lực lượng giữa các nước tư bản. Sản xuất công nghiệp tăng nhanh chóng đưa tới tập trung sản xuất và tư bản. Các nước tư bản đua nhau chiếm dụng những vùng đất đai còn bỏ trống. Lịch sử ba mươi năm cuối thế kỷ XIX gắn liền với những cuộc chiến tranh xâm lược do các nước tư bản thực dân tiến hành ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh.
Nước Pháp dưới thời Đế chế thứ hai của Napoléon III (từ năm 1852) cũng nằm trong trào lưu chung của thế giới tư bản lúc bấy giờ. Cuộc cách mạng công nghiệp hoàn thành vào những năm 50 – 60 của thế kỷ XIX. Cũng trong thời gian này bắt đầu diễn ra quá trình tập trung sản xuất với quy mô lớn. Chính phủ Napoléon III tiếp tục mở rộng các cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa ở Algérie, Trung Quốc, Việt Nam, Campuchia , Mexico…Tình hình chính trị xã hội Pháp dần mất ổn định. Cuối tháng 6 năm 1870, Đế chế thứ hai bước vào thời kỳ khủng hoảng sâu sắc, Napoléon III muốn tiến hành một cuộc chiến tranh với Phổ nhằm củng cố quyền lực nhưng kết quả bị thất bại. Cuộc khởi nghĩa ở Paris ngày 4 – 9 – 1870 đã lật đổ Đế chế II và thiết lập nền cộng hòa. Ngày 26 – 3 – 1871 Công xã Paris được thành lập. Được sư giúp đỡ của nước Đức, giai cấp tư sản đã đàn áp dã man cuộc khởi nghĩa. Sau đó chính quyền Pháp đã thi hành chính sách đối nội, đối ngoại phản động (nền cộng hòa thứ ba). Ngoài 3 nước Đông Dương và 3 tỉnh miền Nam Trung Quốc (Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam), cuộc chiến tranh xâm lược tăng cường ở châu Phi. Năm 1881, Pháp chiếm Tuynidie rồi mở rộng sang lưu vực sông Niger, một phần CongoSahara. Năm 1885, Madagascar bị biến thành xứ bảo hộ. Trong những năm 90 Pháp liên tiếp chinh phục Sénégal, tây Soudan, Guinée, một phần Congo, Dahomay và nhiều khu vực khác. Chỉ trong một thời gian ngắn, thuộc địa của Pháp được mở rộng nhanh chóng, từ chỗ chỉ chiếm 0,2 triệu dặm vuông và 3,4 triệu dân những năm 6 đến 3,7 triệu dặm vuông và với 56,1 triệu dân năm 1899 (đứng sau Anh). Bên cạnh sự phát triển của nước Pháp trong bối cảnh của các nước tư bản cạnh tranh quyết liệt, giai cấp tư sản và thực dân Pháp cũng gặp không ít khó khăn: Thất bại trong chiến tranh xâm lược Mexico, bị Phổ đánh bại và xâm chiếm, cuộc cách mạng vô sản đã thắng lợi và dẫn tới sự thành lập Công xã Paris – nhà nước kiểu mới và sự phân tán ý kiến trong giai cấp tư sản cầm quyền về việc có tiếp tục xâm chiếm Việt Nam hay không. Đó cũng là một thời cơ thuận lợi cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Song triều đình Huế đã không nhận thức được thời cơ và không có ý chí, tinh thần quyết chiến.
Từ trình bày đôi nát về tình hình nước Pháp vào nửa sau thế kỷ XIX, chúng tôi có thể rút ra một số nhận xét sau đây:
Thứ nhất: Quá trình đẩy mạnh xâm lược thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc là xu thế tất yếu khách quan trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.. Nói theo cách của C. Mác, giai cấp tư sản không thể tồn tại nếu không ngừng cải tiến công cụ sản xuất, không ngứng mở rộng lãnh thổ, xâm chiếm thị trường. Chính đấy là nguyên nhân đưa đến các cuộc chiến tranh xâm lược các nước nhỏ yếu để làm thuôc địa và các nước tư bản lại mâu thuẫn với nhau để phân chia lại thế giới. Tuy vậy, không thể khẳng định mất nước vào tay tư bản phương Tây là tất yếu mà do những điều kiện chủ quan nhất định trong đó có vai trò của giới cầm quyền, cũng có thể thoát khỏi nguy cơ mất nước. Việt Nam có thể trong tình hình như vậy.
Thứ hai: Trong bối cảnh bấy giờ các nước Âu Mỹ có nền kinh tế, quân sự, khoa học kỹ thuật hùng mạnh; do đó, đã xâm chiếm được phần lớn các nước Á, Phi, Mỹ LAtinh đang trong giai đoạn hình thành dân tộc, các mặt kinh tế, quân sự, khoa học kỹ thuật còn yếu kém. Sự thất bại của các nước này cũng là khó tránh khỏi nhưng không phải là điều tất yếu. Riêng đối với Việt Nam, một nước có truyền thống yêu nước, đấu tranh kiên cường chống xâm lược, đã đánh thắng nhiều kẻ thù xâm lược mạnh hơn mình gấp nhiều lần thì hoàn toàn có khả năng thoát ách đô hộ, nếu được tổ chức, lãnh đạo tốt như ở các triều đại Lý, Trần, Lê. Việc làm mất nước ta trong điều kiện chủ nghĩa tư bản lúc bấy giờ có phần trách nhiệm không nhỏ của triều đình Huế. Trong thực tế cũng có những nước đánh bại thực dân như trường hợp Mexico thắng Pháp năm 1862. Điều đó cho thấy sự xâm lược lượt là tất yếu nhưng không phải sự thất bại là tất yếu, vô phương cứu chữa và giai cấp cầm quyền ở các nước bị xâm lược phải gành chịu trách nhiệm.
Thứ ba: Trong quá trình chiến tranh xâm lược Việt Nam, Pháp cũng gặp những khó khăn to lớn. Đó là vào năm 1862 khi Pháp bị thất bại ở Mexico, năm 1870 – 1871 thất bại trong chiến tranh Pháp – Phổ và Công xã Paris, tháng 3 – 1885 thất bại ở Lạng Sơn với quân Thanh dẫn đến Chính phủ jules Ferry bị lật đổ v.v…Tiếc rằng triều đình Huế không nắm được các thời cơ này để kháng chiến chống Pháp; nó biểu hiện sự suy yếu của chế độ phong kiến ở Việt Nam, cũng như trên toàn thế giới trước sự thắng thế của chủ nghĩa tư bản.
Thứ tư: Việt Nam mất nước vào tay Pháp không phải là tất yếu, dù vào thời điểm đó tình hình kinh tế chính trị ở nước ta lâm vào khủng hoảng trầm trọng, mâu thuẫn giai cấp diễn ra gay gắt. Sức nước, sức dân dưới chế độ phong kiến nhà Nguyễn kiệt quệ, lại phải chống một kẻ thù hoàn toàn mới và vũ khí hiện đại là thực dân phương Tây. Mật nước không phải là tất yếu vì nếu lúc đó nhà Nguyễn biết đoàn kết được toàn dân, kiên quyết chống Pháp, lợi dụng thời cơ thuận lợi, có chính sách đối nội đối ngoại khôn ngoan thì có thể nước ta không rơi vào tay Pháp. Một giả định nhưng có cơ sở thực tiễn về truyền thống đánh giặc của cha ông ta trong công cuộc dựng nước và giữ nước.
Thứ năm: Bài học rút ra từ sự mất nước dưới triều Nguyễn là phải phát huy nội lực, đoàn kết dân tôc, đoàn kết toàn dân, trên dưới một long, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi để bảo vệ độc lập, xây dựng đất nước.

Ù
   Ù           Ù

Trong nửa sau thế kỷ XIX, thực dân Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam, lúc mà chủ nghĩa tư bàn đang nổi lên các mâu thuẫn cơ bản giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, giữa các nước tư bản với nhau, giữa thực dân xâm lược với nhân dân các dân tộc bị xâm lược. Cuộc kháng chiến của nhân dân các nước phương Đông diễn ra mạnh mẽ trong lúc giai cấp phong kiến nhượng bộ, đầu hang, làm tay sai cho thực dân. Trách nhiệm của giai cấp phong kiến ở các nước này chính là biến sự mất nước không phải tất yếu trở thành tất yếu. Tình hình Việt Nam dưới thời nhà Nguyễn trong cuộc đấu tranh chống xâm lược của nhân dân cũng như thế!




ß Khoa Lịch sử trường ĐHSP Hà Nội

No comments:

Post a Comment