Trong xu thế phát triển của lịch sử loài người, mối quan hệ giữa các
nước ngày càng xích lại gần nhau. Chủ nghĩa tư bản thắng lợi trên phạm vi thế
giới làm cho mối quan hệ này càng chặt chẽ hơn. Khi thực dân Pháp nổ súng xâm
lược nước ta thì chủ nghĩa tư bản ở châu Âu đã bước sang giai đoạn đế quốc. Vì
vậy, muốn hiểu rõ nhiều vấn đề liên quan đến việc Pháp xâm lược Việt Nam
không thể không tìm hiểu bối cảnh lịch sử nước Pháp lúc bấy giờ.
Giới sử học Việt Nam
lâu nay tranh luận các vấn đề: “Việt Nam rơi vào tay thực dân Pháp năm
1885 có phải là tất yếu hay không?”, “Trách nhiệm nhà Nguyễn để mất nước đến
mức độ nào?”.
Để góp thêm ý kiến về vấn đề này, chúng ta hãy trở lại tìm hiểu nước
Pháp trong thời gian cuộc chiến tranh xâm lược xẩy ra.
Trên thế giới, sau các cuộc cách mạng 1848 – 1849 ở châu Âu, chủ nghĩa
tư bản phát triển mạnh mẽ và trở thành hệ thống thế giới. Quy luật phát triển
không đều của CNTB đã làm thay đổi nhanh chóng tương quan lực lượng giữa các
nước tư bản. Sản xuất công nghiệp tăng nhanh chóng đưa tới tập trung sản xuất và
tư bản. Các nước tư bản đua nhau chiếm dụng những vùng đất đai còn bỏ trống.
Lịch sử ba mươi năm cuối thế kỷ XIX gắn liền với những cuộc chiến tranh xâm
lược do các nước tư bản thực dân tiến hành ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh.
Nước Pháp dưới thời Đế chế thứ hai của Napoléon III (từ năm 1852) cũng
nằm trong trào lưu chung của thế giới tư bản lúc bấy giờ. Cuộc cách mạng công
nghiệp hoàn thành vào những năm 50 – 60 của thế kỷ XIX. Cũng trong thời gian
này bắt đầu diễn ra quá trình tập trung sản xuất với quy mô lớn. Chính phủ
Napoléon III tiếp tục mở rộng các cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa ở
Algérie, Trung Quốc, Việt Nam, Campuchia , Mexico…Tình hình chính trị xã hội
Pháp dần mất ổn định. Cuối tháng 6 năm 1870, Đế chế thứ hai bước vào thời kỳ
khủng hoảng sâu sắc, Napoléon III muốn tiến hành một cuộc chiến tranh với Phổ
nhằm củng cố quyền lực nhưng kết quả bị thất bại. Cuộc khởi nghĩa ở Paris ngày 4 – 9 – 1870 đã
lật đổ Đế chế II và thiết lập nền cộng hòa. Ngày 26 – 3 – 1871 Công xã Paris được thành lập. Được
sư giúp đỡ của nước Đức, giai cấp tư sản đã đàn áp dã man cuộc khởi nghĩa. Sau
đó chính quyền Pháp đã thi hành chính sách đối nội, đối ngoại phản động (nền
cộng hòa thứ ba). Ngoài 3 nước Đông Dương và 3 tỉnh miền Nam Trung Quốc (Quảng
Đông, Quảng Tây, Vân Nam), cuộc chiến tranh xâm lược tăng cường ở châu Phi. Năm
1881, Pháp chiếm Tuynidie rồi mở rộng sang lưu vực sông Niger , một phần Congo
và Sahara . Năm 1885, Madagascar bị biến thành xứ bảo hộ.
Trong những năm 90 Pháp liên tiếp chinh phục Sénégal, tây Soudan, Guinée, một
phần Congo, Dahomay và nhiều khu vực khác. Chỉ trong một thời gian ngắn, thuộc
địa của Pháp được mở rộng nhanh chóng, từ chỗ chỉ chiếm 0,2 triệu dặm vuông và
3,4 triệu dân những năm 6 đến 3,7 triệu dặm vuông và với 56,1 triệu dân năm 1899
(đứng sau Anh). Bên cạnh sự phát triển của nước Pháp trong bối cảnh của các
nước tư bản cạnh tranh quyết liệt, giai cấp tư sản và thực dân Pháp cũng gặp
không ít khó khăn: Thất bại trong chiến tranh xâm lược Mexico, bị Phổ đánh bại
và xâm chiếm, cuộc cách mạng vô sản đã thắng lợi và dẫn tới sự thành lập Công
xã Paris – nhà nước kiểu mới và sự phân tán ý kiến trong giai cấp tư sản cầm
quyền về việc có tiếp tục xâm chiếm Việt Nam hay không. Đó cũng là một thời cơ
thuận lợi cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam . Song triều đình Huế đã không
nhận thức được thời cơ và không có ý chí, tinh thần quyết chiến.
Từ trình bày đôi nát về tình hình nước Pháp vào nửa sau thế kỷ XIX,
chúng tôi có thể rút ra một số nhận xét sau đây:
Thứ nhất: Quá trình đẩy mạnh xâm lược thuộc địa của chủ nghĩa
đế quốc là xu thế tất yếu khách quan trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản..
Nói theo cách của C. Mác, giai cấp tư sản không thể tồn tại nếu không ngừng cải
tiến công cụ sản xuất, không ngứng mở rộng lãnh thổ, xâm chiếm thị trường.
Chính đấy là nguyên nhân đưa đến các cuộc chiến tranh xâm lược các nước nhỏ yếu
để làm thuôc địa và các nước tư bản lại mâu thuẫn với nhau để phân chia lại thế
giới. Tuy vậy, không thể khẳng định mất nước vào tay tư bản phương Tây là tất yếu mà do những điều kiện chủ quan nhất định
trong đó có vai trò của giới cầm quyền, cũng có thể thoát khỏi nguy cơ mất
nước. Việt Nam
có thể trong tình hình như vậy.
Thứ hai: Trong bối cảnh bấy giờ các nước Âu Mỹ có nền kinh tế,
quân sự, khoa học kỹ thuật hùng mạnh; do đó, đã xâm chiếm được phần lớn các
nước Á, Phi, Mỹ LAtinh đang trong giai đoạn hình thành dân tộc, các mặt kinh
tế, quân sự, khoa học kỹ thuật còn yếu kém. Sự thất bại của các nước này cũng
là khó tránh khỏi nhưng không phải là điều tất yếu. Riêng đối với Việt Nam, một
nước có truyền thống yêu nước, đấu tranh kiên cường chống xâm lược, đã đánh
thắng nhiều kẻ thù xâm lược mạnh hơn mình gấp nhiều lần thì hoàn toàn có khả
năng thoát ách đô hộ, nếu được tổ chức, lãnh đạo tốt như ở các triều đại Lý,
Trần, Lê. Việc làm mất nước ta trong điều kiện chủ nghĩa tư bản lúc bấy giờ có
phần trách nhiệm không nhỏ của triều đình Huế. Trong thực tế cũng có những nước
đánh bại thực dân như trường hợp Mexico thắng Pháp năm 1862. Điều đó
cho thấy sự xâm lược lượt là tất yếu nhưng không phải sự thất bại là tất yếu,
vô phương cứu chữa và giai cấp cầm quyền ở các nước bị xâm lược phải gành chịu
trách nhiệm.
Thứ ba: Trong quá trình chiến tranh xâm lược Việt Nam ,
Pháp cũng gặp những khó khăn to lớn. Đó là vào năm 1862 khi Pháp bị thất bại ở
Mexico, năm 1870 – 1871 thất bại trong chiến tranh Pháp – Phổ và Công xã Paris,
tháng 3 – 1885 thất bại ở Lạng Sơn với quân Thanh dẫn đến Chính phủ jules Ferry
bị lật đổ v.v…Tiếc rằng triều đình Huế không nắm được các thời cơ này để kháng
chiến chống Pháp; nó biểu hiện sự suy yếu của chế độ phong kiến ở Việt Nam,
cũng như trên toàn thế giới trước sự thắng thế của chủ nghĩa tư bản.
Thứ tư: Việt Nam
mất nước vào tay Pháp không phải là tất yếu, dù vào thời điểm đó tình hình kinh
tế chính trị ở nước ta lâm vào khủng hoảng trầm trọng, mâu thuẫn giai cấp diễn
ra gay gắt. Sức nước, sức dân dưới chế độ phong kiến nhà Nguyễn kiệt quệ, lại
phải chống một kẻ thù hoàn toàn mới và vũ khí hiện đại là thực dân phương Tây.
Mật nước không phải là tất yếu vì nếu lúc đó nhà Nguyễn biết đoàn kết được toàn
dân, kiên quyết chống Pháp, lợi dụng thời cơ thuận lợi, có chính sách đối nội
đối ngoại khôn ngoan thì có thể nước ta không rơi vào tay Pháp. Một giả định
nhưng có cơ sở thực tiễn về truyền thống đánh giặc của cha ông ta trong công
cuộc dựng nước và giữ nước.
Thứ năm: Bài học rút ra từ sự mất nước dưới triều Nguyễn là
phải phát huy nội lực, đoàn kết dân tôc, đoàn kết toàn dân, trên dưới một long,
tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi để bảo vệ độc lập, xây dựng đất nước.
Ù
Ù
Ù
Trong nửa sau thế kỷ XIX, thực dân Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam,
lúc mà chủ nghĩa tư bàn đang nổi lên các mâu thuẫn cơ bản giữa giai cấp tư sản
và giai cấp vô sản, giữa các nước tư bản với nhau, giữa thực dân xâm lược với
nhân dân các dân tộc bị xâm lược. Cuộc kháng chiến của nhân dân các nước phương
Đông diễn ra mạnh mẽ trong lúc giai cấp phong kiến nhượng bộ, đầu hang, làm tay
sai cho thực dân. Trách nhiệm của giai cấp phong kiến ở các nước này chính là
biến sự mất nước không phải tất yếu trở thành tất yếu. Tình hình Việt Nam
dưới thời nhà Nguyễn trong cuộc đấu tranh chống xâm lược của nhân dân cũng như
thế!
No comments:
Post a Comment