Nhìn chung, thái độ của vua Tự Đức đối với cuộc xâm lược của
thực dân Pháp không phải bao giờ cũng giống nhau; chúng ta có thể chia
36 năm trị vì của ông ra làm 2 giai đoạn:
- Giai đoạn đầu, từ khi lên ngôi (1848) đến cuối thập niên 1850,
nhà vua có thái độ chống Pháp quyết liệt, không khoan nhượng, mà cao
điểm là trong mặt trận Đà Nẵng (1858). Có lẽ ông đã bộc lộ được
một phần nào thái độ cương quyết này trong bài “Giản Định Đế”[1]
và nhất là trong bài “Bô Cô tiệp”[2]
ở một tác phẩm ngự chế.
- Giai đoạn sau, từ khi quân Pháp vào đánh lấy Gia Định (1859)
cho đền cuối đời Tự Đức, “vì lực bất tòng tâm”, nên bất đắc dĩ nhà
vua phải nhượng bộ để xoay xở, nhưng càng xoay xở để gỡ gạt thì
càng lâm vào tình trạng lúng túng và sa lầy trước kẻ thù ranh mãnh
và ngày càng ở vào thế thượng phong.
Ở vào giai đoạn cuối của đời mình, chính vua Tự Đức đã có
được cái nhìn toàn cục là triều đại và bản than mình có lien quan
đến thời kỳ lịch sử vong quốc ấy, và phải chịu trách nhiệm trước
lịch sử, vì “tội qui vu trưởng”. Nhà vua đã từng viết trong một bài
Dụ: “Trăm họ có lỗi là lỗi của trẫm”[3].
Trong bộ Tự Đức Thánh chế văn Tam
tập, chúng ta còn thấy được nhà vua đã thú nhận tội lỗi của
mình trong việc để mất đất qua hàng chục bài dụ khác nhau. Nhưng
thái độ của ông đối với thực dân Pháp rõ ràng và chân thật hơn hết
có lẽ là bài Khiêm cung ký mà
ông đã viết vào giai đoạn cuối đời và hiện nay chúng ta còn đọc
được trên tấm bia đá ở khu lăng tẩm của ông:
“Người châu Âu cách xa trùng dương hơn vạn dặm…bỗng thuyền quân
kéo đến..., gây mối thù, xâm lấn bờ cõi nước ta, cậy có thuyền chắc
chắn, súng tốt, muốn chiếm lấy bừa, hết Quảng Nam liền đến Gia
Định… Bất đắc dĩ cầu hòa với giặc, sai sứ đi định ước…, không biết
vì cớ gì mà lập thành hòa ước dễ dàng để về đem cả thổ địa nhân
dân các triều mở mang khó nhọc bỏ cho giặc hết. Để trẫm cùng một
lão (thần) còn sót lại không thể làm thế nào được, chỉ trông nhau
cùng khóc, đã cam chịu tội với Tôn miều, thiên hạ…Nhưng biết người
không tinh, là tội ở trẫm, dùng người không xứng, cũng là tội ở
trẫm…”[4]
Lỗi lầm dưới thời Tự Đức có lẽ chủ yếu là do nới đám cận
thần già nua thủ cựu, bất lực và ngại đổi mới vì tham quyền cố
vị. (?).
Trong phần cuối của bài văn bia ấy, nhà vua viết:
“Nay tag hi chép sự thực, chỉ đều là việc một mình ta biết,
mà mọi người không được biết, để gọi chút giải tỏ chí ta với thiên
hạ, còn như công việc hay dở đã có sử sách, ta chẳng nói them thừa…”[5].
Đúng thề, công việc vua Tự Đức hay hoặc dở đã có sử sách
chép. Nhưng nay đọc lại sử sách, chúng tôi thấy rằng có những chỗ
dường như chưa thỏa đáng. Có người bảo rằng Tự Đức là một ông vua
bán nước, trong khi đó, chính ông là người đã tìm đủ mọi cách để
“mua nước lại”, “chuộc đất lại”, và cố gắng giữ gìn quốc thể. Vào
tháng 7 – 1863, khi phái bộ Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Ngụy Khắc
Đản lên đường qua Pháp để tìm cách chuộc lại 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ
đã mất, nhà vua đã “chảy nước mắt…dụ các sứ thần rằng: quốc thư
nên đệ tới quốc trưởng, chớ để cho người đương sự lấp liếm đi. Khi
đến nước ấy thì trước hãy hỏi xem quan xủa họ người nào được việc,
nhờ nói hộ, không nên chuyên ủy cho người thong ngôn, ngõ hầu mới được
nên việc. Vả lại sứ thần là thay mệnh vua…cẩn thận chớ có cúi lạy
để đến nổi làm nhục quốc thể[6]
Nều có kẻ bảo vua Tự Đức là người “phản động”, “đầu hàng,
mở đường cho thực dân Pháp chiếm cứ toàn bộ đất nước”[7];
là một “tên vua hèn nhát”, “đần độn, cực kỳ ngu xuẩn”[8],
thì lại có người cho biết vua Tự Đức là một người “hiền lành”, “có
hiếu”, “siêng năng”, “hiếu học”[9];
thậm chí ngay trên báo Nhân Dân, có người còn xếp vua Tự Đức vào hàng
“những tri thức lớn của dân tộc”[10]
Như vậy, từ trước đến nay, người ta chưa nhất trí với nhau
trong việc đánh giá về nhân vật Tự Đức trong lịch sử. Phần lớn
người ta khen hoặc chê ông vua này tùy theo quan điểm, lập trường của
mình trong từng chế độ chính trị khác nhau.
Gần đây, một nhà nghiên cứu người Nhật Bản, Tiến sĩ Yoshiharu
Tsuboi, cho rằng mãi đến cuối 1873, khi “một tướng lãnh không ai thay
thế được là Nguyễn Tri Phương đã bị tử thương”, vua Tự Đức vẫn “muốn
cố thâu hồi độc lập hoàn toàn cho đất nước. Mặc dầu trước mắt
người Pháp, tuy bề ngoài yếu ớt và hình dáng yểu điệu, nhưng nhà
vua rất vững về mặt tinh thần và rất kiên trì về mặt chính trị, dù
là cố gắng của ông không mang lại thành công”[11].
Dù sao, vua Tự Đức cũng chỉ là một con người, nghĩa là phải
chịu sự cho phối của môi trường sinh trưởng, giáo dục, đào tạo, chịu
ảnh hưởng của huyết thống gia đình, hoàn cảnh xã hội và bối cảnh
lịch sử quốc gia và quốc tế. Với hai dòng văn hóa Đông – Tây khác
hẳng nhau và hai hệ thống tín ngưỡng không giống nhau, ông tích cực
chống lại người phương Tây khi họ đến đánh chiếm nước ta là một điều
dễ hiểu.
Một điều đáng lưu ý khác nữa: Việt Nam thời Tự Đức là một
trong những nước sau cùng ở vùng Đông Á rơi vào tay thực dân phương Tay . Phần lớn các quốc gia khác trong vùng như Philippinnes , Indonesia ,
Malaysia , Miến Điện (nay
là Myanmar )…đã
lọt vào tay các đế quốc từ lâu.
Trên đây, chúng tôi không có ý định biện minh cho nhân vật Tự
Đức trước lịch sử, vì những khuyết điểm của ông trong việc nước
cũng như việc nhà đều đã quá rõ. Nhưng, qua thái độ chống ngoại xâm
quyết liệt của ông trong giai đoạn đầu, chúng ta cũng nên ghi nhận ở
ông một tấm lòng thương dân yêu nước, chứ không nên đòi hỏi ở ông một
đấng minh quân vượt thời đại lịch sử và bối cảnh xã hội mà ông
sống. Hơn nữa, vua Tự Đức cũng đã nhiều lần tỏ ra ân hận về những
lỗi lầm của mình lúc sinh tiền cũng như trong giấc ngủ thiên thu.
Đúng như nhà vua đã từng tự bạch trong bài Dụ nêu trên.
“Trẫm kkho6ng có tài năng gì khác, chỉ riêng có một dạ yêu
dân, đến tuổi già càng đốc thiết. Trông lên cúi xuống, sống không mặt
mũi nào, chết cũng không thể nhắm mắt!”.
Là con người, khi đọc đến đây, chắc hẳn ai cũng động lòng
trắc ẩn và ngậm ngùi cho ông và bất hạnh và sinh bất phùng thời
này của triều Nguyễn.
ß
Hội KHLS Thừa Thiên - Huế
[1] Dục
TÔng Anh Hoàng đế: ngự chế Việt sử tổng vịnh, tập thượng, bản dịch,
Sài Gòn, 1970, tr. 141 – 142.
[2] Sđd,
tập hạ, Sài Gòn, 1970, tr. 151 – 154.
[3] Tự Đức Thánh chế Văn Tam tập, tập
đã dẫn, Bài Dụ khuyến khích
tra8mquan ở trong và ngoài, tr. 135.
[4] Đại Nam thực lục, bản dịch Viện
sử học, NXB KHXH, Hà Nội, 1973, tập XXXI, tr. 156 – 157, 165
[5] Đại Nam thực lục, bản dịch Viện
sử học, NXB KHXH, Hà Nội, 1973, tập XXXI, tr. 156 – 157, 165
[6] Đại Nam thực lục, bản dịch đã
dẫn, tập XXX, tr. 21 – 25.
[7] Phạm
Tú Châu, mục từ Nguyễn Hồng Nhậm trong
Từ điển Văn học, tập II, NCB
KHXH, Hà Nội, 1985, tr. 17.
[8] Nguyễn
Khánh Toàn, Lời nói đầu trong lịch
sử Việt Nam, NXB KHXH, Hà Nội, tập II, 1985, tr. 17.
[9] Thân
Trọng Huề, dẫn theo Trần Trong Kim, Việt
Nam
sử lược, NXB Tân Việt, in lần thứ 7, Sài Gòn 1964, tr. 470 – 473.
[10] Cao
Hữu Lạng, Giá trị lịch sử của chữ
Nôm và việc sưu tầm, bảo quản những tư liệu chữ Nôm, Báo Nhân dân,
Hà Nội, số 11492, ngày 20/12/1985, tr. 3
[11]
Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối
diện với Pháp và Trung Hoa, bản dịch của Nguyễn Đình Đầu và các
cộng tác viên, Ban KHXH Thành ủy TP. Hồ Chí Minh xuất bản, 1990, tr.
265.
No comments:
Post a Comment