Con vua Trần Nhân Tông, em vua Trần Anh Tông. Năm 1301 Thượng hoàng Nhân
Tông đi du lịch đến vương quốc Champa, được vua Chăm là Chế Mân (Jaya
Sinhavarman III) tiếp đãi tử tế. Để xây dựng mối hữu nghị Việt – Chăm, Nhân
Tông hẹn gã Huyền Trân cho Chế Mân. Ít lâu sau Chế Mân sai người sang dâng vàng
bạc và sản vật để xin cưới. Nhưng cho rằng đây là một cuộc hôn nhân không tương
xứng, hoàng gia và triều thần quyết liệt chống lại cuộc hôn nhân Việt – Chăm
này. Việc ấy kéo dùng dằng đến năm năm. Cuối cùng quá say đắm Huyền Trân, dù đã
có hoàng hậu người Java, Chế Mân cắt hai châu Ô và Lý (tương đương với một phần
ba vương quốc Champa) để làm lễ cưới. Hai châu Ô, Lý là một phần đất Quảng
Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên và Quảng Nam sau này. Trước lễ dẫn cưới ấy, vua Anh
Tông thuận gả, thế là tháng sáu năm Bính Ngọ (1306) Huyền Trân xuống thuyền về
nhà chồng, trở thành hoàng hậu Paramecvari. Bài ca Nam Bình diễn tả sự ra đi ấy
như sau:
Nước non ngàn dặm ra đi, mối tình chi
Mượn màu son phấn, đền nợ Ô Ly
…
Tình đem lại mà cân,
Đắng cay trăm phần,
Nhưng trái với lời ca Nam Bình, Huyền Trân đã hưởng được hạnh phúc trong
cuộc hôn nhân này.
Năm 1307 vua Anh Tông cho thu nhận hai châu Ô và Lý, đổi tên lại là Thuận
Châu và Hóa Châu, sai Đoàn Nhữ Hài vào kinh lý và đặt quan cai trị. Cuộc hôn
nhân chính trị của Huyền Trân đã đem lại cho nước Đại Việt vựa lúa Bình Trị
Thiên, cửa biển chiến lược Tư Dung (Tư Hiền), đèo chiến lược Hải Vân.
Hạnh phúc của Huyền Trân chỉ hơn một năm thì Chế Mân đột ngột chết. Theo
tục lệ Chăm, Huyền Trân phải bị hỏa thiêu theo vua. Để cứu em gái, vua Anh Tông
sai Trần Khắc Chung* sang giả điếu tang, lén đưa Huyền Trân về cố quốc. Tương
truyền rằng hành trình trở về kéo dài lênh đênh trên biển cả một năm trời vì mối
nảy nở giữa Huyền Trân và Trần Khắc Chung.
Q.T.
No comments:
Post a Comment