Xung quanh vấn đề nguyên nhân mất nước và trách nhiệm của nhà
Nguyễn để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp có nhiều ý kiến khác
nhau trong nghiên cứu cững như trong dạy học lịch sử. Nhìn chung các
nhà sử học, giáo dục lịch sử đều thống nhất rằng triều đình Huế
phải chịu trách nhiệm trong việc làm mất nước. Lý giải cho quan điểm
này, các nhà sử học và giáo dục lịch sử đã quy vua tơi nhà Nguyễn
các tội hèn yếu, bảo thủ, không chịu tiến hành canh tân đất
nước…Những điều này được xem là nguyên nhân dẫn đến việc mất nước.
Góp phần giải quyết những vấn đề trên, chúng tôi giới thiệu
một số quan điểm của Phan Bội Châu đối với thái độ của vua tôi nhà
Nguyễn trong việc nước ta mất nước vào tay thực dân Pháp.
Phan Bội Châu là một nhà yêu nước nhiệt thành, từ thuở niên
thiếu đến cuối đời luôn sục sôi “bầu máu nóng”, với nguyện ước “vì
nước, vì dân”. Tuy không mấy thành công trong quá trình đấu tranh cứu
nước, như cụ từng đánh giá trong “Phan
Bội Châu niên biểu”: “Than ôi! Lịch sử của ta là lịch sử của trăm
thất bại mà không một thành công”, song cuộc đời và sự nghiệp yêu
nước của Cụ đã để lại cho nhân dân một si sản quý báy – “Cứu quốc
tồn chủng” (lo cứu nước bảo vệ nòi gióng), như Cụ đã ghi trong “Lời
cáo biệt đồng bào”.
Dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, Phan Bội Châu mong mọi người
tù vua quan đến thứ dân biệt nhục mất nước mà đứng lên đấu tranh cứu
nước. Bởi vì, “Không có gì đau bằng người mất nước, cũng không có
gì đau bằng người bị mất nước mà bàn việc nước!”[1].
Cũng từ mục tiêu cứu nước là chủ yếu cho nên đối với Phan Bội Châu
trong việc đánh giá một con người Việt Nam, dù là vua, quan hay thuộc
một tầng lớp xã hội nào khác, chỉ dựa vào một tiêu chuẩn chung. Đó
là có lòng yêu nước và quyết tâm đấu tranh đánh đuổi giặc cứu nước
hay không?
Qua nhiều tác phẩm của Phan Bội Châu, đặc biệt trong “Việt Nam vong quốc sử”, chúng ta dễ
dàng nhận thấy Cụ hết lời ca ngợi những người yêu nước và lên án
bọn bán nước, kẻ phản bội đầu hàng, không kể những người này thuộc
giai cấp nào, tầng lớp nào trong xã hội.
Đối với các vua nhà Nguyễn, Phan Bội Châu cũng khách quan nhìn
nhận rằng buổi đầu thời Gia Long, do “vua tôi Việt Nam hòa Thuận, đối
với chính giáo không thiếu sót…”, nên thực dân Pháp “chưa dám khinh
xuất động binh”[2]. Song,
“đến khoảng đầu Tự Đức, thấy nước Việt Nam quả là yếu hèn, chính
giáo, dân quyền ngày càng bị tướt bớt, công luận không được mờ
rộng”, nên Pháp mới “đem thuyền binh, xuất kỳ bất ý lẻn ra đánh Đà Nẵng”[3].
Phan Bội Châu không ca ngợi vua nào của nhà Nguyễn, kể cả Hàm
Nghi, Thành Thái, nhưng cũng lên án gay gắt thái độ, cách cư xử của
thực dân Pháp đối với các vua có lòng yêu nước. Điều này, xuất phát
từ một cơ sở mà Phan Bội Châu nêu ra: “Nguyên Việt Nam là một nước có
vua”[4].
Cần phải hiểu rằng, Phan Bội Châu đã nói đến một thực tế, một điều
thuộc về pháp lý lúc bấy giờ: nước có vua. Cho nên Cụ mới lên án “
Người Pháp đã đánh hạ kinh thành, vua Hàm Nghi vì thế phải chạy ra,
đến nơi nào thì một tất đất đều là đất cũ của tổ tong cha mẹ, có
can gì đến người Pháp? Thế mà người Pháp đã theo bắt cho kỳ được,
đem đày ở nơi xa tít mãi đất Algen…lại giam ở nhà kín, cấm không
được giao thong với người ngoài, lại cấm đứt những tin tức qua lại,
hỏi han người Việt. Đem một ông vua có đức mà không có tội lỗi gì
cầm tù nơi đất khách…”[5].
Còn đối với triều thần thì thái độ của Phan Bội Châu cũng
rất rõ ràng: phê phàn, đả kích những viên quan hèn nhát, ca tụng
những người chiến đấu hy sinh cho đất nước. Cụ dành nhiều trang trong “Việt Nam vong quốc sử” để trình
bày “Tiểu truyện các chí sĩ lúc mất
nước”, như Nguyễn Bích ở Nam Định, Nguyễn Đôn Ti6et1 ở Thanh Hóa,
Lê Trung D(ình, Trần Du ở Quảng Ngãi, Nguyễn Hữu Chính, Nguyễn Xuân ở
Nghệ An và đặc biệt là Phan Đình Phùng ở Hà Tĩnh.
Như vậy Phan Bội Châu đứng trên quan điểm yêu nước để đánh giá
các vua, quan nhà Nguyễn, nhưng không phải không đề cập đến trách
nhiệm của triều đình Huế trong việc làm mất nước. Trong bài “Phổ cáo lục tỉnh” (gửi đồng bào
sáu tỉnh Nam Kỳ), dùng lời Cường Để – một hoàng thân Nhà Nguyễn –
nói với nhân dân miền đất mới khai phá từ thời các chúa Nguyễn ở
Đàng Trong, nhằm thu hút được sự ủng hộ tích cực của nhân dân Nam Bộ
đối với phong trào Đông Du của Duy Tân hội do Cường Để là “Hội chủ”.
Phan Bội Châu đã nói đến công lao khai phá đất đai, ca tụng những anh
hùng liệt sĩ Nguyễn Hữu Huân, Trương Định, Nguyễn Trung Trực, “đều
khẳng khái bỏ mình, khí anh linh lẫm liệt, các vị đã chết nhưng
không hề mai một”[6].
Mặt khác cũng phê phán việc Nguyễn Ánh đã liên kết với Pháp,
gây dựng lực lượng để độc quyền thống trị đất nước, dẫn tới cái
họa mất nước sau này: “Chúng nó từng đem Đông cung Thái tử Cảnh là
dòng tích tôn năm đời của Gia Long là một kẻ bất tài, lại gặp lúc
vận bỉ đem ra hải ngoại rồi bí mật lập quan hệ ngoại giao”[7].
Từ việc vạch trần ý đồ của Nguyễn Ánh dựa vào ngoại bang
để đánh bại Tây Sơn, rồi ngày một lệ thuộc vào Pháp, dẫn tới chỗ
khuất phục, đầu hàng. Quá trình này bắt nguồn ở bản chất vua tôi
nhà Nguyễn. Phan Bội Châu đã phê phán rất gay gắt rằng: “…Ví sử vua
tôi người Việt Nam thường nghĩ đến tiến bộ, lo mở mang dân trí, lo đào
tạo nhân tài, về quốc kế quân mưu, mọi việc đều cầu tiến bộ, có lẽ
đâu lại không như lửa mạnh mà được củi khô bốc lên rừng rực sáng đỏ
thấu trời đất ư? Người ta cũng có nói: “đồ đựng đầy thời nghiêng
đổ”. Người Việt bấy giờ tự coi là mãn túc, ôm vàng vênh váo, ếch
ngồi đáy giếng không trông thấy trời, văn vui chơi, võ yên nghĩ ngày
càng thậm tệ. Trong khi ấy về chính giáo thì chứa chất hủ lậu, mọi
việc đều mô phỏng Minh Thanh, văn nhân thì khư khư giữ theo sách cũ, tự
khoe đắc chí; vũ sĩ thì cốt ở cờ trống mỹ quan, côn quyền coi như
trò chơi, tự cho là không ai hơn được. Đáng bỉ hơn hết là ức chế dân
quyền, coi thường dư luận, phàm bàn việc quốc gia đại kế, nhân dân
chỉ được ở ngoài hỏi rồi than thở mà thôi”[8].
Trng đoạn dẫn trên, tuy Phan Bội Châu không trực tiếp nêu rõ là
vua quan Nhà Nguyễ, song qua đó hiểu rõ đối tượng mà Cụ chỉ trích
là triều đình Huế. Nhưng điều mà Phan Bội Châu nêu lên phản ánh thực
trạng xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, thái độ, tư tưởng bảo thủ, rập
khuôn, sợ dân, xa rời dân, áp bức bóc lột nhân dân là đúng sự thực
đã diễn ra.
Nhận xét về tình hình đất nước, triều đình lúc bấy giờ,
Phan Bội Châu cũng nêu một giả định lịch sử; là giả định không có cơ
sở thực tế khách quan. Bởi vì, trong những điều kiện tương tự như
Việt Nam trước nguy cơ xâm lược của thực dân phương Tây, có nước đã canh
tân đất nước, thoát khỏi thân phận một nước nô lệ. Tiêu biểu là Nhật
Bản mà Phan Bội Châu đã nhìn thấy và hy vọng, mong ước sự giúp đỡ
của “đồng văn, đồng chủng”. Giả định của Phan Bội Châu như sau: “Nước
Việt Nam lúc bấy giờ biết chăm lo tu chỉnh về quân chính, mở rộng dân
quyền, vua tôi trên dưới đều mạnh mẽ mưu trị nước, nghiên cứu sâu trí
học của ngoại dương, tẩy trừ khuôn khổ hủ lậu, “kịp khi trời chưa mưa
dầm, lấy những gốc dâu mà gài chằng cửa sổ,”, nước còn có thể
phấn chấn lên được.
Nhưng nước Việt Nam mơ màng đôi mắt ngủ, uể oải thân bệnh, tôn
quân quyền, trọng hủ văn, khinh võ sĩ, trộm cướp rình mò ở sân, mà
vợ con say hát trong nhà, chủ nhân nằm dài trên giường luôn luôn ngáp
dài mỏi mệt. Than ôi! Nguy ngập lắm thay”[9].
Những điều trên đây được nhiều nhà duy tân thời Nguyễn, như
Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Đặng Huy Trứ,…điều trần. Ở đây,
Phan Bội CHâu không đề xuất cho triều đình mà chủ yếu nói chung cho
cả nước. Chúng ta còn thấy thấp thoáng tư tưởng của Trần Quốc Tuấn
Hưng Đạo Vương trong “Hịch tướng sĩ”
trong đoạn văn trên của Phan Bội Châu; song Cụ Phan nói về trách nhiệm,
nghĩa vụ của người dân với đất nước, quê hương, gia đình chứ không
phải là mối quan hệ vua – tôi, chủ – tớ, như Trần Quốc Tuấn nêu trong
bài hịch của mình.
Phân tích thái độ, vai trò của triều đình Huế, Phan Bội Châu
cuối cùng cũng phải đề cập đến trách nhiệm của vua quan nhà Nguyễn
trong việc làm mất nước ta. Chương thứ mười “Đầu đuôi mối quan hệ
giữa nước ta với châu Âu” trong quyển “Việt
Nam sử khảo” trình bày khá đầy đủ về quá trình Thiên chú giáo
xâm nhập vào Việt Nam, đi đôi với quá trình thực dân phương Tây âm mưu
và tiến hành xâm lược nước ta. Việc triều đình Nguyễn ngày càng lệ
thuộc, bị ràng buộc vào thực dân đi đến chỗ mất chủ quyền độc lập
và làm tay sai cho chúng được thể hiện ở cac hiệp ước được ký kết,
như các hiệp ước 1862, 1883, 1884. Phan Bội Châu đã nêu rõ, triều đình
nhà Nguyễn cứ trượt dần theo con đường thất bại chủ ngĩa, không tính
gì đến dân, đến nước. Cụ đã kết
án việc làm mất nước của triều đình Huế là “do rất nhiều điều tệ,
tội nhiều không kể hết, nhưng trong đó có bốn cái tội lớn:
- Một là ngoại giao hẹp hòi
- Hai là nội trị hủ bại
- Ba là dân trí bế tắc
- Bốn là vua tôi trên dưới tự tư tự lợi[10]
Vì vậy triều đình mới từ kháng cự yếu ớt chuyển dần sang
nhượng bộ, đầu hàng, làm tay sai cho thực dân. Thái độ này khác hẳn
tinh thần, ý chí chống ngoại xâm của nhân dân ngày càng mạnh mẽ.
Ở đây, một vấn đề được đặt ra là vì sao nhìn thấy sự hèn
yếu, phản bội của triều đình phong kiến mà trong buổi đầu đấu tranh
giành độc lập, Phan Bội Châu vẫn giương ngọn cờ “quân chủ lập hiến”,
tôn phong Cường Để làm minh chủ. Có thể nhận thức rằng, Phan Bội Châu
muốn tập hợp mọi lực lượng để đạt mục tiêu lớn nhất lúc bấy giờ
là độc lập dân tộc. Con đường “quân chủ lập hiến” lúc bấy giờ còn
có thể tập hợp được nhiều nhà yêu nước khi chưa xác định con đường
cứu nước mới, hơn nũa cũng chưa hoàn toàn thoát khỏi tư tưởng “trung
quân ái quốc”. Tuy nhiên, ở đây cũng cần nhấn mạnh rằng ngay từ thời
phong trào Cần Vương, tư tưởng trung quân cũng không phải phục hồi chế
độ phong kiến đã lỗi thời mà chỉ tôn phò một ông vua yêu nước mà
thôi. Có lẽ lúc đầu nhà sĩ phu yêu nước Phan Bội Châu giương ngọn cờ
“quân chủ lập hiến” chỉ là một “thủ đoạn”, sách lược trong đấu tranh
cứu nước, giải phóng dân tộc, vì chẳng bao lâu sau Phan Bội Châu đã
nhiệt liệt hoan nghênh và đi theo con đường “Cộng hòa” và trước khi bị
bắt đưa về nước ít lâu, Cụ đã hướng về “Chủ nghĩa xã hội”.
Tìm hiểu quan điểm của Phan Bội Châu đối với trách nhiệm của
vua quan nhà Nguyễn trong việc để nước ta rơi vào ách đô hộ của thực
dân Pháp, chúng tôi mong muốn góp phần vào việc kiến giải một vấn
đề lớn của lịch sử Việt Nam thời cận đại đang còn tranh cãi.
ß
Khoa Lịch Sử – Trường ĐHSP Hà Nội.
[1] Phan
Bội Châu toàn tập, tập 2. Chương
Thâu sưu tầm và biên soạn, NXB Thuận Hóa, Huế, 1990, tr. 103.
[2] Sđd, tr.
106
[3] Sđd, tr.
106 - 107
[4] Sđd, tr.
125
[5] Sđd, tr.
125 - 126
[6] Sđd, tr.
71
[7] Sđd, tr.
106
[8] Sđd, tr.
107
[9] Sđd, tr.
483
[10] Sđd,
tr. 483
No comments:
Post a Comment