Qua gần 40 năm cuối thế kỷ XIX thực dân Pháp mới chinh phục
được Việt Nam, đặt ách đô hộ trên toàn bộ nước ta. Tuy nhiên, chúng
đã chủ trương không xóa bỏ triều đình Huế, mà để nó tồn tại đến
năm 1945. Quan hệ giữa chính quyền thực dân với triều đình Huế diễn
ra như thế nào? Thực chất của mối quan hệ đó là gì? Vần đề cần
được tìm hiểu.
Năm 1784, để chống lại Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã giao hoàng tử
Cảnh cho Bá Đa Lộc sang Pháp ký hiệp ước Versailles, hiệp ước mở
đường cho thực dân Pháp xâm lược Việt Nam ở cuối thế kỷ sau.
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Trong khi các
phong trào đấu tranh của nhân dân ta dấy lên ở khắp nơi tiếp tục kháng
chiến thì triều đình Huế đã ký các bản hiệp ước, từng bước dâng
nước ta cho chúng. Hai hiệp ước 1862, 1874 đã biến toàn bộ lục tỉnh
Nam Kỳ thành thuộc địa của thực dân Pháp. Sau khi mất Nam Kỳ, biết
sức mình không thể chống lại được thực dân Pháp, triều đình Huế
ngoài việc xin cầu hòa “chuộc đất” với Pháp, còn tìm cách giao
thiệp với các cường quốc để cầu viện, đặc biệt là với nhà Thanh.
Triều đình Huế đã tiếp xúc với toàn quyền Anh, lãnh sự Tây Ban Nha,
lãnh sự Đức ở Hương Cảng. Để hạn chế độc quyền của Pháp ở Việt
Nam, các nước phương Tây cũng muốn đặt lãnh sự ở nước ta hoặc ký
thương ước. Những cố gắng của triều đình Huế đều bị thất bại. Năm
1885, hiệp ước Thiên Thân giữa Pháp và Trung Hoa quy định nhà Thanh
phải thừa nhận sự bảo hộ của thực dân Pháp ở nước ta.
Hai hiệp ước 1883, 1884 chấp nhận sự bảo hộ của thực dân Pháp
trên toàn bộ lãnh thổ còn lại của nước ta (Trung Kỳ và Bắc Kỳ).
Với hiệp ước 1883 thực dân Pháp chia Việt Nam ra ba “kỳ”. Nước ta mất
quốc hiệu. Theo Hiệp ước 1884, triều đình Huế không còn quyền đối
ngoại, nhưng về danh nghĩa còn giữ quyền nội trị, quyền bình trị.
Điều 16 của hiệp ước ghi rõ: “Hoàng đế An Nam tiếp tục điều khiển
như trong quá khứ nền hành chính nội bộ của vương quốc”[1].
Nhưng sau khi đặt ách thống trị lên đất nước ta, thực dân Pháp đã dần
từng bước củng cố, mở rộng bộ máy thống trị của mình và dần từng
bước tước đi những quyền còn lại của triều đình Huế.
Tại Nam Kỳ, thực dân Pháp trực tiếp nắm quyền ci trọ về mọi
mặt. Ngày 25 – 6 – 1867, Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp tại Nam
Kỳ ra bản tuyên bố: “Toàn bộ sáu tỉnh Nam Kỳ là lãnh địa của Pháp.
Kể từ nay triều đình Huế không còn quyền lực gì đối với Nam Kỳ lục
tỉnh nữa. Một chính quyền duy nhất tồn tại ở Nam Kỳ, đó là chính
quyền của người Pháp”[2].
Tại Bắc Kỳ, với ý đồ tách Bắc Kỳ khỏi triều đình Huế,
thực dân Pháp đề nghị vua Đồng Khánh trao quyền bổ nhiệm quan lại cho
một thượng quan Việt Nam đóng ở Bắc Kỳ. Ngày 3 – 6 – 1886 vua ra dụ
thiết lập chức Kinh lược sứ Bắc Kỳ. Chức này được thay mặt vua cai
quản Bắc Kỳ. Mỗi năm vị Kinh lược chỉ phải một vài lần về kinh tâu
vua. Được giao quyền hạn rộng rãi, nhưng viên Kinh lược sứ chủ yếu
làm nhiệm vụ trung gian: báo có việc hành chính của các tỉnh về
triều đình và Thống sứ Pháp; ban bố các hiệu lệnh của triều đình
ra các tỉnh.
Sau khi chiếm cả Campuchia, năm 1887 khối Đông pháp được thành
lập, bao gồm thuộc địa Nam Kỳ và ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Cao Miên,
đặt dưới sự điều khiển của một viên Toàn quyền. Sắc lệnh tổ chức
khối Đông Pháp ghi rõ: “Tất cả các lãnh thổ thuộc Pháp ở Đông Dương
sẽ được đặt dưới quyền của quan Toàn quyền là đại diện trực tiếp
của chính phủ Pháp trong mọi lãnh thổ sát nhập hay bảo hộ và chỉ
chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng Thuộc địa”.
Ngày 27 – 7 – 1897, thực dân Pháp ép vua Thành Thái ra đạo dụ
bãi bỏ chức Kinh lược Bắc Kỳ, chuyển giao toàn bộ “quyền hành” vào
tay Thống sứ. Từ đây Thống sứ Bắc Kỳ nhân danh nhà vua Việt Nam cai
trị xứ Bắc Kỳ mà không tham khảo ý kiến của nhà vua. Ở các tỉnh
có Công sứ người Pháp, mọi quan lại Nam triều từ tỉnh đến phủ,
huyện, cơ sở đều phục tùng mệnh lệnh Công sứ. Từ đây, vua và triều
đình Huế không còn chút quyền hành gì ở Bắc Kỳ.
Năm 1888, vua Đồng Khánh còn nhường cho Pháp “quyền sở hữu” ở
Hà Nội, Hài Phòng, Đà Nẵng. Ba tỉnh thành đã trở thành nhượng địa
của thực dân Pháp.
Tại Trung Kỳ, triều đình Huế vẫn được duy trì; giúp việc cho
vua vẫn có Hội đồng phụ chính. Hội đồng Phủ tong nhân, Viện cơ mật,
Hội đồng Thượng Thu. Năm 1897, với cái gọi là “cải tổ”, theo yêu cầu
của Pháp, vua bãi bỏ Hội đồng Phụ chính, Hội đồng Thượng thư. Viện
cơ mật trở thành một loại Hội đồng nội các mà các phiên họp phải
đặt dưới quyền chủ tọa của quan Khâm sứ Pháp ở Trung Kỳ. Nhà cầm
quyền Pháp còn cử một số công chức người Pháp biệt phái bên cạnh
các vị Thượng thư để phụ tá công việc. Việc bổ nhiệm thăng giáng
các aun lại triều đình là do khâm sứ Pháp chuẩn y hoặc trực tiếp bổ
nhiệm.
Ngày 16 – 11 – 1925, vua Khải Định mất, Vĩnh Thụy, lên ngôi khi
mới 12 tuổi. Nhân dịp này, chính quyền bảo hộ ép Nam triều ký một
hiệp ước chuyển giao cho viên Khâm sứ Pháp các quyền hạn chính trị
và tư pháp cuối cùng còn lại của vua An Nam (Hiệp ước 25 – 11 – 1925).
Năm 1932, Khâm sứ Pháp còn trở thành Chủ tịch Hội đồng Hoàng
tộc.
Ở các chính quyền địa phương, Pháp vẫn dùng một số quan lại
người Việt nhưng họ đều do người Pháp bổ nhiệm và được chính quyền
thuộc địa trả lương. Quyền lợi của họ gắn chặt với chính quyền
thuộc địa chứ không gắn với triều đình Huế.
Như vậy, chế độ bảo hộ đã nhường chỗ cho chế độ trực trị;
tổ chức hành chính của Pháp đã choán chỗ của tổ chức hành chính
của Việt Nam. Trên thực tế cả ba miền Bắc, Trung , Nam
của nước ta đã trở thành thuộc địa của Pháp. Vua quan nhà Nguyễn
chỉ là những bù nhìn, tay sai của thực dân Pháp.
Trước sự lấn dần của thực dân Pháp, triều đình Huế đã đôi
lần phản kháng, đề nghị cải cách chế độ thống trị của thực dân
Pháp, đòi trả lại quyền hành cho nhà Nguyễn, như các vua Thành Thái,
Duy Tân đã làm. Năm 1922, vua Khải Định và Thượng thư Nguyễn Hữu Bài,
cũng sang Pháp yêu cầu giao lại quyền hành của Bắc Kỳ theo đúng tinh
thần của HIệp ước 1884, nhưng không đạt kết quả.
Năm 1932 vua Bảo Đại sau mười năm du học ở Pháp đã trở lại
Việt Nam, nhận ngôi báu. Năm 1933, Bảo ĐẠi
quyết định tự mình chấp chính và công bố một chương trình cải
cách rộng lớn. Bảo Đại còn cho thành lập Ủy ban cải cách, gồn các
vị Thượng thư và các quan chức người Pháp. Nhưng phong trào cải cách
do Bảo Đại đề xướng không thành vì chính quyền bảo hộ Pháp không chấp
nhận.
Vào nửa cuối những năm 1990, chính phủ Mặt trận Bình dân Pháp
thi hành một số cải cách ở Việt Nma. Trước tình hình đó, năm 1938,
Bảo Đại lại một lần nữa đưa ra đề nghị sửa đổi hiệp ước bảo hộ,
đòi trả lại cho Việt Nam chủ quyền nội bộ, nhưng cũng không được
Pháp chấp nhận.
Sau khi Nhật đảo chính Pháp ngày 10 – 3 – 1945, đại sứ Nhật
công bố “Việt Nam độc lập”. Ngày 11 – 3 – 1945, Bảo đại tuyên bố chấm
dứt chế độ bảo hộ. Trên thực tế nền độc lập mà Nhật Bản trao cho
Việt Nam chỉ là giả hiệu. Nền chính trị ở nước ta vẫn y như trước,
có khác chăng là công chức người Nhật thay thế người Pháp.
Trước sự xâm lược lấn át dần của thực dân Pháp, tuy triều
đình Huế về cơ bản chịu khuất phục ngoan ngoãn làm tay sai, nhưng vẫn
có lúc tỏ thái độ chống đối (mạnh mẽ là các vua yêu nước Hàm Nghi,
Thành Thái, Duy Tân).
ß
Khoa Sử – Đại Học Sư phạm Hà Nội
[1] Trích
theo: Việt Nam
dưới thời Pháp đô hộ – Nguyễn Thế Anh. Trung tâm xuất bản học liệu.
Bộ Văn hóa giáo dục và thanh niên Sài Gòn, 1974.
[2] Việt
Nam những sự kiện Lịch sử 1858 – 1918 – Dương Kinh Quốc, NXB Giáo Dục,
1990, tr. 67
No comments:
Post a Comment