Wednesday, June 29, 2016

QUAN HỆ GIỮA THỰC DÂN PHÁP VÀ TRIỀU ĐÌNH HUẾ DƯỚI THỜI PHÁP ĐÔ HỘ



Ts. Vũ Thị Hòaß

Qua gần 40 năm cuối thế kỷ XIX thực dân Pháp mới chinh phục được Việt Nam, đặt ách đô hộ trên toàn bộ nước ta. Tuy nhiên, chúng đã chủ trương không xóa bỏ triều đình Huế, mà để nó tồn tại đến năm 1945. Quan hệ giữa chính quyền thực dân với triều đình Huế diễn ra như thế nào? Thực chất của mối quan hệ đó là gì? Vần đề cần được tìm hiểu.
Năm 1784, để chống lại Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã giao hoàng tử Cảnh cho Bá Đa Lộc sang Pháp ký hiệp ước Versailles, hiệp ước mở đường cho thực dân Pháp xâm lược Việt Nam ở cuối thế kỷ sau.
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Trong khi các phong trào đấu tranh của nhân dân ta dấy lên ở khắp nơi tiếp tục kháng chiến thì triều đình Huế đã ký các bản hiệp ước, từng bước dâng nước ta cho chúng. Hai hiệp ước 1862, 1874 đã biến toàn bộ lục tỉnh Nam Kỳ thành thuộc địa của thực dân Pháp. Sau khi mất Nam Kỳ, biết sức mình không thể chống lại được thực dân Pháp, triều đình Huế ngoài việc xin cầu hòa “chuộc đất” với Pháp, còn tìm cách giao thiệp với các cường quốc để cầu viện, đặc biệt là với nhà Thanh. Triều đình Huế đã tiếp xúc với toàn quyền Anh, lãnh sự Tây Ban Nha, lãnh sự Đức ở Hương Cảng. Để hạn chế độc quyền của Pháp ở Việt Nam, các nước phương Tây cũng muốn đặt lãnh sự ở nước ta hoặc ký thương ước. Những cố gắng của triều đình Huế đều bị thất bại. Năm 1885, hiệp ước Thiên Thân giữa Pháp và Trung Hoa quy định nhà Thanh phải thừa nhận sự bảo hộ của thực dân Pháp ở nước ta.
Hai hiệp ước 1883, 1884 chấp nhận sự bảo hộ của thực dân Pháp trên toàn bộ lãnh thổ còn lại của nước ta (Trung Kỳ và Bắc Kỳ). Với hiệp ước 1883 thực dân Pháp chia Việt Nam ra ba “kỳ”. Nước ta mất quốc hiệu. Theo Hiệp ước 1884, triều đình Huế không còn quyền đối ngoại, nhưng về danh nghĩa còn giữ quyền nội trị, quyền bình trị. Điều 16 của hiệp ước ghi rõ: “Hoàng đế An Nam tiếp tục điều khiển như trong quá khứ nền hành chính nội bộ của vương quốc”[1]. Nhưng sau khi đặt ách thống trị lên đất nước ta, thực dân Pháp đã dần từng bước củng cố, mở rộng bộ máy thống trị của mình và dần từng bước tước đi những quyền còn lại của triều đình Huế.
Tại Nam Kỳ, thực dân Pháp trực tiếp nắm quyền ci trọ về mọi mặt. Ngày 25 – 6 – 1867, Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp tại Nam Kỳ ra bản tuyên bố: “Toàn bộ sáu tỉnh Nam Kỳ là lãnh địa của Pháp. Kể từ nay triều đình Huế không còn quyền lực gì đối với Nam Kỳ lục tỉnh nữa. Một chính quyền duy nhất tồn tại ở Nam Kỳ, đó là chính quyền của người Pháp”[2].
Tại Bắc Kỳ, với ý đồ tách Bắc Kỳ khỏi triều đình Huế, thực dân Pháp đề nghị vua Đồng Khánh trao quyền bổ nhiệm quan lại cho một thượng quan Việt Nam đóng ở Bắc Kỳ. Ngày 3 – 6 – 1886 vua ra dụ thiết lập chức Kinh lược sứ Bắc Kỳ. Chức này được thay mặt vua cai quản Bắc Kỳ. Mỗi năm vị Kinh lược chỉ phải một vài lần về kinh tâu vua. Được giao quyền hạn rộng rãi, nhưng viên Kinh lược sứ chủ yếu làm nhiệm vụ trung gian: báo có việc hành chính của các tỉnh về triều đình và Thống sứ Pháp; ban bố các hiệu lệnh của triều đình ra các tỉnh.
Sau khi chiếm cả Campuchia, năm 1887 khối Đông pháp được thành lập, bao gồm thuộc địa Nam Kỳ và ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Cao Miên, đặt dưới sự điều khiển của một viên Toàn quyền. Sắc lệnh tổ chức khối Đông Pháp ghi rõ: “Tất cả các lãnh thổ thuộc Pháp ở Đông Dương sẽ được đặt dưới quyền của quan Toàn quyền là đại diện trực tiếp của chính phủ Pháp trong mọi lãnh thổ sát nhập hay bảo hộ và chỉ chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng Thuộc địa”.
Ngày 27 – 7 – 1897, thực dân Pháp ép vua Thành Thái ra đạo dụ bãi bỏ chức Kinh lược Bắc Kỳ, chuyển giao toàn bộ “quyền hành” vào tay Thống sứ. Từ đây Thống sứ Bắc Kỳ nhân danh nhà vua Việt Nam cai trị xứ Bắc Kỳ mà không tham khảo ý kiến của nhà vua. Ở các tỉnh có Công sứ người Pháp, mọi quan lại Nam triều từ tỉnh đến phủ, huyện, cơ sở đều phục tùng mệnh lệnh Công sứ. Từ đây, vua và triều đình Huế không còn chút quyền hành gì ở Bắc Kỳ.
Năm 1888, vua Đồng Khánh còn nhường cho Pháp “quyền sở hữu” ở Hà Nội, Hài Phòng, Đà Nẵng. Ba tỉnh thành đã trở thành nhượng địa của thực dân Pháp.
Tại Trung Kỳ, triều đình Huế vẫn được duy trì; giúp việc cho vua vẫn có Hội đồng phụ chính. Hội đồng Phủ tong nhân, Viện cơ mật, Hội đồng Thượng Thu. Năm 1897, với cái gọi là “cải tổ”, theo yêu cầu của Pháp, vua bãi bỏ Hội đồng Phụ chính, Hội đồng Thượng thư. Viện cơ mật trở thành một loại Hội đồng nội các mà các phiên họp phải đặt dưới quyền chủ tọa của quan Khâm sứ Pháp ở Trung Kỳ. Nhà cầm quyền Pháp còn cử một số công chức người Pháp biệt phái bên cạnh các vị Thượng thư để phụ tá công việc. Việc bổ nhiệm thăng giáng các aun lại triều đình là do khâm sứ Pháp chuẩn y hoặc trực tiếp bổ nhiệm.
Ngày 16 – 11 – 1925, vua Khải Định mất, Vĩnh Thụy, lên ngôi khi mới 12 tuổi. Nhân dịp này, chính quyền bảo hộ ép Nam triều ký một hiệp ước chuyển giao cho viên Khâm sứ Pháp các quyền hạn chính trị và tư pháp cuối cùng còn lại của vua An Nam (Hiệp ước 25 – 11 – 1925).
Năm 1932, Khâm sứ Pháp còn trở thành Chủ tịch Hội đồng Hoàng tộc.
Ở các chính quyền địa phương, Pháp vẫn dùng một số quan lại người Việt nhưng họ đều do người Pháp bổ nhiệm và được chính quyền thuộc địa trả lương. Quyền lợi của họ gắn chặt với chính quyền thuộc địa chứ không gắn với triều đình Huế.
Như vậy, chế độ bảo hộ đã nhường chỗ cho chế độ trực trị; tổ chức hành chính của Pháp đã choán chỗ của tổ chức hành chính của Việt Nam. Trên thực tế cả ba miền Bắc, Trung, Nam của nước ta đã trở thành thuộc địa của Pháp. Vua quan nhà Nguyễn chỉ là những bù nhìn, tay sai của thực dân Pháp.
Trước sự lấn dần của thực dân Pháp, triều đình Huế đã đôi lần phản kháng, đề nghị cải cách chế độ thống trị của thực dân Pháp, đòi trả lại quyền hành cho nhà Nguyễn, như các vua Thành Thái, Duy Tân đã làm. Năm 1922, vua Khải Định và Thượng thư Nguyễn Hữu Bài, cũng sang Pháp yêu cầu giao lại quyền hành của Bắc Kỳ theo đúng tinh thần của HIệp ước 1884, nhưng không đạt kết quả.
Năm 1932 vua Bảo Đại sau mười năm du học ở Pháp đã trở lại Việt Nam, nhận ngôi báu. Năm 1933, Bảo ĐẠi  quyết định tự mình chấp chính và công bố một chương trình cải cách rộng lớn. Bảo Đại còn cho thành lập Ủy ban cải cách, gồn các vị Thượng thư và các quan chức người Pháp. Nhưng phong trào cải cách do Bảo Đại đề xướng không thành vì chính quyền bảo hộ Pháp không chấp nhận.
Vào nửa cuối những năm 1990, chính phủ Mặt trận Bình dân Pháp thi hành một số cải cách ở Việt Nma. Trước tình hình đó, năm 1938, Bảo Đại lại một lần nữa đưa ra đề nghị sửa đổi hiệp ước bảo hộ, đòi trả lại cho Việt Nam chủ quyền nội bộ, nhưng cũng không được Pháp chấp nhận.
Sau khi Nhật đảo chính Pháp ngày 10 – 3 – 1945, đại sứ Nhật công bố “Việt Nam độc lập”. Ngày 11 – 3 – 1945, Bảo đại tuyên bố chấm dứt chế độ bảo hộ. Trên thực tế nền độc lập mà Nhật Bản trao cho Việt Nam chỉ là giả hiệu. Nền chính trị ở nước ta vẫn y như trước, có khác chăng là công chức người Nhật thay thế người Pháp.
Trước sự xâm lược lấn át dần của thực dân Pháp, tuy triều đình Huế về cơ bản chịu khuất phục ngoan ngoãn làm tay sai, nhưng vẫn có lúc tỏ thái độ chống đối (mạnh mẽ là các vua yêu nước Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân).



ß Khoa Sử – Đại Học Sư phạm Hà Nội
[1] Trích theo: Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ – Nguyễn Thế Anh. Trung tâm xuất bản học liệu. Bộ Văn hóa giáo dục và thanh niên Sài Gòn, 1974.
[2] Việt Nam những sự kiện Lịch sử 1858 – 1918 – Dương Kinh Quốc, NXB Giáo Dục, 1990, tr. 67

No comments:

Post a Comment