Người sáng lập Phật giáo Hòa Hảo, sinh năm 1919 tại làng Hòa Hảo, tỉnh
Châu Đốc (An Giang), cha là Huỳnh Công Bộ làm Hương Cả trong làng. Lúc nhỏ Huỳnh
Phú Sổ học ở trường làng, sau đó tiếp tục học bậc tiểu học ở Tân Châu. Nhưng đến
năm cuối của bậc tiểu học, Sổ bị bệnh, gần như bị lãng trí và phải nghỉ học, được
cha mẹ đưa đến thầy Xồm, một người tu hành sống ẩn dật trên núi Cấm, nổi tiếng
về tài chữa bệnh bằng bùa ngải để nhờ chạy chữa. Sổ qui y và ở lại chùa học
kinh và học các bài vè, bài kệ của Đoàn Minh Huyên*, một nhà tu hành sống vào nửa
đầu thế kỷ 19 được nhân dân vùng Hậu Giang rất tin tưởng và gọi là Phật Thầy
Tây An. Huỳnh Phú Sổ cũng học cả thuật chữa bệnh của thầy. Sau khi thầy Xồm mất,
Huỳnh Phú Sổ trở về làng Hòa Hảo.
Năm 1939, Huỳnh Phú Sổ tự nhận mình là hậu kiếp của Đức Phật Thầy Tây
An, có trách nhiệm truyền bá một lý thuyết Phật giáo mới (tức Phật giáo Hòa Hảo).
Ngày 18-5 âm lịch năm Kỹ Mão (1939) được xem là ngày khai đạo. Huỳnh Phú Sổ cho
mọi người thấy ở mình có một sự biến đổi huyền bí sau một đêm mưa gió: từ một
người bệnh hoạn đã trở thành người khỏe mạnh, nói năng hoạt bát, có tài xuất khẩu
thành thi, có thể thuyết pháp hàng giờ không biết mệt, biết được những điều bí
truyền của Phật Thầy và có khả năng dùng giấy vàng và các thứ lá cây để trị bệnh
như Phật Thầy trước kia. Chẳng bao lâu sau, Huỳnh Phú Sổ nổi tiếng khắp các tỉnh
Sa Đéc, Châu Đốc, Vĩnh Long, Long Xuyên, Cần Thơ. Số tín đồ đạo Hòa Hảo ngày
càng đông. Người ta gọi Huỳnh Phú Sổ là “Phật Sống”, có người gọi là “Ông đạo
khùng”.
Năm 1940, thực dân Pháp thấy Huỳnh Phú Sổ tạo được một lực lượng lớn ở Hậu
Giang không có lợi cho họ nhất là vào lúc phát xít Nhật đã bắt đầu can thiệp
vào Đông Dương nên bắt Sổ đưa sang Châu Đốc (giữa năm 1940), sau đó chuyển đến
Sa Đéc, Kinh Xáng Xà No, Cần Thơ rồi đưa vào nhà thương Chợ Quán (Sài Gòn) để
quản thúc. Tại đây Huỳnh Phú Sổ thuyết phục được bác sĩ điều trị là Trần Văn
Tâm theo đạo Hòa Hảo. Sổ cũng bắt liên lạc với quân Nhật. Tháng 5.1941, Pháp lấy
tiếng đưa Huỳnh Phú Sổ về Bạc Liêu dưỡng bệnh nhưng thực sự là để giam lỏng tại
đây.
Tháng 10.1942 hiến binh Nhật đưa Huỳnh Phú Sổ về Sài Gòn và trọng đãi. Đạo
Hòa Hảo đã trở thành một lực lượng chính trị ở Nam Bộ với Đảng Dân Xã thân Nhật.
Một số tín đồ Hòa Hảo lên Sài Gòn lập nên tổ chức bán quân sự được Nhật cung cấp
vũ khí.
Sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền diễn
ra trên cả nước dưới sự lãnh đạo của Việt Minh. Tại Nam Bộ đến cuối tháng
8.1945, chính quyền cách mạng được thành lập, tại khắp các địa phương dưới sự
lãnh đạo cảu Ủy ban Hành chánh Lâm thời Nam Bộ tìm cách tập hợp các lực lượng để
chống Pháp nhưng Huỳnh Phú Sổ không chịu hợp tác. Trước đó vào ngày 8.5.1945 lực
lượng Hòa Hảo ở Hậu Giang huy động tín đồ định kéo về chiêm chính quyền Cần Thơ
nhưng bị dẹp tan. Trong khi đó Huỳnh Phú Sổ trốn khỏi Sài Gòn để ẩn náu ở Đức
Hòa rồi tìm đường về miền Tây Nam Bộ.
Huỳnh Phú Sổ mất tại Tân Phú (Đốc Vàng, Long Xuyên) ngày 16.4.1947 (25.2
Đinh Hợi). Huỳnh Phú Sổ để lại 5 quyển Sấm
giảng (sau được tập họp trong Sấm giảng
thi văn toàn bộ), 215 bài thi ký tên Sĩ Cuồng hay tên thật và 33 bài thuốc
Nam.
L.V.N.
No comments:
Post a Comment