Wednesday, June 1, 2016

TRIỀU ĐÌNH NHÀ NGUYỄN VỚI CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG XIÊM CỦA NHÂN DÂN LẠN XẠNG DO CHẬU A NỤ LÃNH ĐẠO (1826 – 1828)



Viêng Vichit Sútthiđệtß

1.      Việc chuẩn bị cuộc kháng chiến chống phong kiến Xiêm của Chậu A Nụ.
Vào nhửng năm đầu thế kỷ XIX, trong lúc vương quốc Là Lạn Xạng bị chia cắt thành cacq tiểu quốc và phải nằm dưới ách đô hộ của phong kiến Xiêm, đã xuất hiện một nhân tài có ý đồ lớn lao là lật đổ sự đô hộ của người Xiêm, lập lại sự thịnh vượng và thống nhất nước Lào. Đó là “Chậu A Nụ - vị anh hùng của dân tộc Lào”[1].
Dưới ách đô hộ của phong kiến Xiêm, nhân dân các bộ tộc Lào phải chịu biết bao nổi khổ nhục. Ngoài việc phải nộp thuế, nhân dân còn phải đi lao dịch nặng nhọc để phục vụ cho triều đình phong kiến Xiêm. Chậu A Nụ là người thấu hiểu được cảnh cùng cực đó.
Tháng 12/1805, trong bức thư cùng cống vật gửi cvua Gia Long để tỏ long giao hữu với Việt Nam, Chậu A Nụ đã ít nhiều nói lên nỗi khổ của dân tộc Lào lúc đó: “lại bị người Xiêm làm khổ”[2].
Việc nung nấu ý chí chống lại ách áp bức của phong kiến Xiêm của Chậu A Nụ không phải là một ý đồ bộc phát, mang tính chất cá nhân, mà phản ánh nguyện vọng của nhân dân, một sự chuẩn bị cả về đối nội và đối ngoại để chống ngoại xâm.
Một năm sau khi lên ngôi vua Viêng Chăn (1805), Chậu A Nụ đã tìm kiếm chỗ dựa về vật chất và tinh thần để tạo them sức mạnh chống lại ách đô hộ của Xiêm bằng cách: :…cử phái bộ sang Huế. Từ đó đều đặn 3 năm một lần, sứ thần Viêng Chăn lại sang triều kiến, mang theo tặng vật đến cống”. Có lần Chậu A Nụ đem trả một số quân lính chạy trốn (1811) cho triều đình Huế, có lần năm trước vừa cử sứ mới sang Việt Nam, nhưng khi tin Gia Long vừa chết, vua Minh Mệnh lên thay, năm sau (1822) vua Viêng Chăn lại có sứ sang viếng vua cũ và mừng vua mới. Như thế là: “Chậu A Nụ có ý thức thiết lập quan hệ ngoại giao thân thiện và mật thiết với Việt Nam tìm chỗ tin cậy và lâu dài”[3]
Chậu A Nụ đã tiến hành những chính sách đối nội, đối ngoại vừa để đất nước hùng mạnh, giữ vững độc lập vừa thiết lập quan hệ láng giềng tốt  đẹp, trước hết với Việt Nam[4].
Về đối nội: Chậu A Nụ ra sức khuyến khích nhân dân xây dựng Viêng Chăng thánh một Mường thịnh vượng. Khắp nơi trong nước xây dựng chùa chiền, bắc cầu qua song Mê Kông. Các công cuộc xây dựng đó đều được sự quan tâm của nhà vua. Năm 1808, nhà vua dự lễ khánh thành tôn giáo Phạ Nôm. Năm 1814, xây dựng cầu bắc qua song Mê Kông ở cạnh chùa Xặng Phược (Bản Xỉ Xiêng May – Thái Lan ngày nay). Năm 1816, nhà vua dự lễ khánh thành Hỏ Pha Kẹo và Hỏ Tay. Chùa Xỉ Xa Kệt cũng được xây dựng lại vào năm 1818, ở nội thành Viêng Chăn. Chùa Xỉ Xa Kệt được Chậu A Nụ chọn lảm nơi nghênh tiếp các chậu mường về yết kiến và dự lễ tuyên thệ trung thành với quốc vương. Dưới thời trị vị của Chậu A Nụ, Viêng Chăn đã trở nên thịnh vượng. Điều đó đã được một viên tướng Xiêm, khi đi thị sát Viêng Chăn trở về nước, đã nhận xét rằng: Viêng Chăn là một thành thị tươi đẹp và phồn vinh mà ông ta mới gặp lần đầu trong đời[5].
Về đối ngoại. năm 1821, Chậu A Nụ tranh thủ long tin của vua Xiêm Rama II, xin phong cho con trai mình là Chậu Látxabútdỗ làm Chậu mường Chămpasắc. Được sự hướng dẫn của vua cha, Chậu Látxabútdỗ đã xây thành, đào hào, củng cố Chămpasắc thành một thành trì kiên cố.
Song song với việc chuẩn bị lực lượng về mọi mặt, Chậu A Nụ cũng cử một đoàn đi thương thuyết với Chậu A Mường Luổngphabang là Mãnthatulát. Bức thư của Chậu A Nụ có đoạn viết: “Chúng ta hãy cùng nhau tập hợp lực lượng Mường Lào không phải tiếp tục phụ thuộc Xiêm nữa, nếu sau này mà hoàn thành (cuộc chống Xiêm), xin dâng Mường Lào cho nhà vua Luổngphabang, để Mường Lào chỉ có một nhà vua và lại là một Mường duy nhất như trước kia. Còn phần tôi (Chậu A Nụ) xin vào chùa tu hành”[6].
Khi lên ngôi, vua Xiêm Rama III, tiếp tục thực hiện âm mưu thâm độc của chủ nghĩa Đại Thái là “năm chặt dân của tất cả các mường Lào”, nhằm biến nhân dân Lào thành dân Xiêm, nghĩa là thực hiện việc đồng hóa người Lào.
Chính sách trên đây của Xiêm làm tăng them lòng căm thù chủ nghĩa Đại Thái và quyết tâm chống ách đô hộ Xiêm của Châu A Nụ.
Chậu A Nụ nhận định tình hình Xiêm rằng, vua còn trẻ, thiếu kinh nghiệm chiến đấu, lại bị quân Anh tấn công Băng Kok nếu nhân cơ hội đó, lực lượng của Lào chủ động tấn công thì quân Xiêm trở tay không kịp. Đầu năm 1827, Chậu A Nụ lệnh cho các cánh quân vượt song Mê Kông sang đất Xiêm, làm chủ một vùng rộng lớn.
Nhưng ý đồ của Chậu A Bụ đã không thành. Lực lượng quân Xiêm mạnh hơn nhiều, bao vây và phản công lại. Bị đẩy lùi vào thế bí, Chậu A Nụ đã bỏ thành củng gia quyến chạy sang biên giới giáp với Đại Việt, mong tìm được chỗ dựa tin cậy ở triều đình nhà Nguyễn (1827).
2. Sự Giúp đỡ của triều đình Nguyễn đối với cuộc kháng chiến chống Xiêm của nhân dân Lào Lạn Xạng do Chậu A Nụ lãnh đạo (1826 – 1828).
Sau khi rời kinh thành, Chậu A Nụ và gia quyến đến xin sống nhờ ở vùng biên giới thuộc đất Việt Nam (Nghệ An). Là một người có lòng yêu nước, trong thời gian sống lưu vong ở Nghệ An, Chậu A Nụ vẫn luôn luôn nuôi chí căm thù giặc và xin sự giúp đỡ của triều đình nhà Nguyễn để chống Xiêm.
Trước tình hình đó, nhà Nguyễn cũng ở vào tình trạng khó xử. Một mặt nhà Nguyễn muốn giữ mối quan hệ láng giềng với phong kiến Xiêm, đã có từ thời Nguyễn Ánh, mặt khác cũng thể hiện lòng nhân nghĩa giúp đỡ và bảo vệ người gặp nạn. Vì vậy, không nỡ coi Chậu A Nụ như người ngoài nên “…cho Vạn Tượng trú ở Ba Động, nếu nước Xiêm đến đòi thì tỏ ra nghĩa lý mà khước đi…”[7]. Vua Minh Mệnh còn “sai Nguyễn Công Tiệp đem tặng 1000 lạng bạc…”[8] cho Chậu A Nụ và gia quyến.
Sự kiện Chậu A Nụ lãnh đạo nhân dân Lào chống lại phong kiến Xiêm, không chỉ liên quan đến vận mệnh của nhân dân Lào, mà còn có ảnh hưởng quan trọng đến vùng biên giới của Đại Việt. Trong khi bàn luận về vấn đề này, nhiều quan lại của nhà Nguyễn đã có “thái độ thủy chung và cái nhìn đúng đắn”[9], đưa ra những ý kiến tích cực và mang đậm  tính nhân nghĩa. Người tiêu biểu cho quan điểm này là đại thần Lê Văn Duyệt. Sau khi đã phân tích tình hình nước Lào, ông nói: “…Ta với nước Xiêm, tiếng là láng giềng, thực là nước đối địch, ngày nay giao hiếu, nhưng chưa biết ngày khác thế nào. Nước Vạn Tượng nếu bị nước Xiêm kiêm tính, thì ta cùng với nước Xiêm giáp nhau, thần sợ tiếng ngáy ở giường bên khó mà ngủ yên, Chẳng bằng tìm cách cho nước Vạn Tượng được yên, để làm phên giậu cho ta…nước Vạn Tượng mất thì thế nước Xiêm càng to, mối lo ấy càng sâu. Cân nhắc nghĩa nặng nhẹ, bàn mối lo nông sâu, thì giúp Vạn Tượng mà chống nước Xiêm tưởng là hơn cả”[10].
Tham trị bộ Lại Hoàng Kim Hoãn còn có ý kiến mạnh mẽ và kiên quyết hơn: “Nghệ An là xương sống của nước ta, bên ngoài Trà Lân tiếp ngay Vạn Tượng là phên giậu của nước ta, ta không nên bỏ. Nếu nó (Xiêm) chiếm cứ thành ấp nhân dân nước Vạn Tượng thì khác gì nó dỡ phên giậu của ta đi…Vả lại, đánh quan cường bạo là chính, giúp nước nhỏ bé là nghĩa, quân ta đánh có chính và nghĩa thì đánh đâu chẳng vỡ”[11].
Những lời bàn bạc đầy tâm huyết trên đây của các quan trong triều đình Nguyễn không chỉ nhằm mục đích giúp nhân dân Lào chống Xiêm mà còn trực tiếp bảo vệ an ninh vùng biên giới của Đại Việt và ngân chặn sự bành trướng của chủ nghĩa Đại Thái. Tuy nhà Nguyễn là một triều đại phong kiến đã lỗi thời, nhưng vẫn còn mang đậm nét của hệ tư tưởng phong kiến nên đã giữ “tâm thế của một nước lớn và…thái độ bảo thủ giữ mình”[12]. Vì vậy, Minh Mệnh vẫn giữ thái độ dè dặt: “Hiện nay chưa biết thế nào, nên yên tĩnh cđể đợi”.
Với tất cả lòng yêu nước và quyết tâm đấu tranh giành lại độc lập cho đất nước minh, Chậu A Nụ đã tỏ rõ quyết tâm đó bằng những lời cầu viện hết sức “thống thiết, mà khảng khái hiên ngang”[13] khẳng định rằng: “sự tự đem quân đến thẳng thành cũ (Viêng Chăn)”. Nếu gặp quân Xiêm ngăn trở thì tự đương đầu, không dám phiền đến một người quan quân (Việt).
Việc xong rồi mà nước Xiêm lại đến xâm lược thì “thế chết giữ lấy thành trì chứ không chạy như trước nữa”[14]. Chậu A Nụ đã cho người về chiêu dụ các bộ lạc ứng nghĩa, được đến vạn người, chỉ xin chờ quan quân đưa về đất nước để lấy viện trợ”[15].
Khi bàn về sự kiện Chậu A Nụ, các đình thần nhà Nguyễn đều khẳng định rằng: “A Nỗ đã có chí phục quốc, lại có cơ hội phục quốc, triều đình chính nên xử trí”[16].
Trước những lời khấn cầu của Chậu A Nụ và lời đề nghị của các đình thần, Minh Mệnh không nỡ khước từ, nên đã cho một đạo quân 3000 người và 20 thớt voi hộ tống Chậu A Nụ về nước, nhưng vẫn dặn dò: “Quân ta đến biên giới, nếu người Xiêm kháng cự thì nên đưa thư lấy nghĩa lớn mà bảo cho họ thôi, nếu họ bắt sứ của ta, càn rỡ gây chiến thì chạy tâu ngay…mà tự ta không gây hấn trước, đó là thượng sách”[17].
Trong thực tế, đạo quân hộ tống Chậu A Nụ đặt dưới sự chỉ huy của Đô Thống chế Đinh long võ Phan Văn Thúy, Phó tướng quân Nguyễn Văn Xuân và Tham tri Hiệp trấn Nghệ An Nguyễn Khoa Hào, đã đóng quân lại ở Trấn Ninh (Xiêng Khoảng). Chỉ có hai đội binh thần sách do cai đội Nguyễn Trọng Thai chỉ huy hộ tống Chậu A Nhụ về đến Viêng Chăn (1828). Sau đó vua Minh Mệnh hạ lệnh cho Phan Văn Thúy rút quân về nước vì ông cho rằng đã đạt được mục đích trong việc “hộ tống” vua Viêng Chăn.
Nhìn chung triều đình nhà Nguyễn tuy tỏ rõ tính “nghĩa cử” để giúp đỡ Chậu A Nụ trong việc chống phong kiến Xiêm, nhưng vua Minh Mệnh vẫn có thái độ “dè dặt” “đáng tiếc” do cách nhìn nhận và đánh giá cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Lào chưa đúng, không thất rõ âm mưu của phong kiến Xiêm đối với Lào.
Ngay từ khi Chậu A Nụ sai Phì Xà Nộn đem thu đến Nghệ An xin giúp đỡ, vua Minh Mệnh đã cho rằng: “gần đây, người Xiêm sinh sự có phải tự ý vua Xiêm, hay là bở tướng ngoài biên cầu công mà gây việc, cũng chưa biết rõ”[18]. Nhà vua cũng không muốn Chậu A Nụ đầu tranh giành độc lập, nên khuyên “…Ủy bề tôi tin cẩn đến tạ nước Xiêm giữ lễ phiên thần mãi mãi”[19] . Với “tâm thế của một nước lớn…”vua Minh Mệnh còn giận và “quở trách” Chậu A Nụ là “gây chuyện”, “nóng nảy làm càng, tự gây lấy bại vong” “làm như thế là phụ lòng trẫm” và hạ lệnh: “Nếu nó (Chậu A Nụ) lại chạy sang ta thí nên cự mà không nhận”. Nhà vua sai Phan Văn Thống là cai đội quân thần sách Nghệ An đem thư đến Viêng Chăn bắt Chậu A Nụ tạ lội với nước Xiêm, đưa trả súng và khí giới cho họ đỡ giận”.
Phải chăng thái độ “tiêu cực” của vua Minh Mệnh trên đây còn là một sự bao che cho chủ nghĩa Đại Thái. Bởi vì, chính nhà vua cũng từng được nghe ý kiến của quan quân khi bàn về việc “Vạn Tượng cùng với nước Xiêm đánh nhau…”và cho rằng: “Tội nước Xiêm nên đánh, nên đợi sứ thần nước ta về bảo rồi sẽ kể tội mà đánh”[20].
Có phải chăng thái độ của triều đình Huế đã ảnh hưởng đến cuộc kháng chiến chống Xiêm xâm lược, không phản ánh được mong muốn đoàn kết, giúp đỡ nhau có tính chất truyền thống của nhân dân hai nước Lào – Việt. Điều này chỉ được thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương.



ß Viện KHGD Lào
[1] Cay Sỏn Phômvihản: Một vài kinh nghiệm và một số vấn đề về đường lối cách mạng Lào trong giai đoạn mới, NXB Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào, 1979, tr. 8; bản tiến Lào.
[2] Nguyễn Thị Lệ: Thư tịch cổ Việt Nam về Đông Nam Á, phần Lào, UBKHXH, Hà Nội, 1977, tr. 52.
[3] Lương Ninh (CB), Lịch sử Lào, trường ĐHSP Hà Nội I, Hà Nội, 1991, tr. 102.
[4] Manhuri và  Phời Phăn Ngạu Xỉ Vắt: Chậu A Nụ 1767 – 1829 – Lào và Đông Nam Á, NXB CHDCND Lào, 1988, tr. 35.
[5] Manhuri và Phởn Phăn Ngạu Xỉ Vắt: Sđd, tr. 8.
[6] Manhuri và Phởn Phăn Ngạu Xỉ Vắt: Sđd, tr. 35.
[7] Đại Nam thực lục, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1960 – 1976, T8, quyển 45, tr. 39.
[8] Đặng Bích Hà và nhiều tác giả. Lịch sử Lào, NXB Văn Hóa thông tin, Hà Nội, 1998, tr. 214.
[9] Lương Ninh (CB) Sđd, tr. 105.
[10] Đại Nam thục lục, NXB Khoa học xã hội. Hà Nội. 1960 – 1976, T 8. Quyển 45, tr. 239.
[11] Đại Nam thực lục, Sđd, tr. 247 – 248.
[12] Lương Ninh (CB), Sđd, tr. 105.
[13] Đại Nam thực lục, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1960 – 1976, T 8, quyển 51.
[14]  Đại Nam thực lục, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1960 – 1976, T 8, quyển 51.
[15] Đại Nam thực lục, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1960 – 1976, T 8, quyển 51.
[16] Đại Nam thực lục, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1960 – 1976, T 8, quyển 51
[17] Đại Nam thực lục, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1960 – 1976, T 9, tr. 111
[18] Đại Nam thực lục, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1960 – 1976, T 9, tr. 111
[19] Đại Nam thực lục, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1960 – 1976, T 9, tr. 111

[20] Đại Nam thực lục, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1960 – 1976, T 9, tr. 126

No comments:

Post a Comment