Trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào nửa sau thế kỷ
XIX, nhân dân Tây Bắc cùng đồng bào cả nước đấu tranh mạnh mẽ.
Tây Bắc bao gồm 10 châu Thái lúc này thuộc tỉnh Hưng Hóa[1],
là địa bàn cư trú của 23 dân tộc anh em: Thái, Mông, Lự, Hoa, Kinh, Khơ
Mú, Tày, Mường…[2]. Các
dân tộc Tây Bắc tuy còn nghèo nàn lạc hậu nhưng giàu truyền thống yêu
nước, kiên cường bất khuất trong kháng chiến chống ngoại xâm vì tự do
độc lập của dân tộc dưới sự chỉ đạo của tuần phủ Nguyễn Quang
Bích, kết hợp với quân “Cờ đen” của Lưu Vĩnh Phúc (bộ phận nghĩa
quân nông dân Trung Quốc giúp ta chống Pháp), nhân dân các dân tộc Tây
Bắc đã phát huy truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất của
mình, thành lập đạo quân “Thập Châu” kiên quyết đứng lên chống thực
dân Pháp xâm lược. Nghĩa quân “Thập Châu” đều do thủ lĩnh các châu
mường chỉ huy và được chia làm 4 đội: Đội quân Văn Bàn, Văn Chấn dưới
sự chỉ huy của Nguyễn Văn Quang, đội quân Mộc Châu do Sa Văn Nọi chỉ
huy, đội quân Thuận Châu, Mai Sơn, Yên Châu, Mường LA do Cầm Bun Hoan chỉ
huy, đội quân Lai Châu, Phong Thổ do thủ lĩnh châu mường Điêu Văn Trì
lãnh đạo[3].
Nghĩa quân “Thập Châu” cùng với quân “Cờ Đen” của Lưu Vĩnh Phúc là
lực lượng nòng cốt của đạo quân Sơn Tây trong phong trà chống Pháp vùng
Tam Tuyên (Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quan) thời kỳ này.
Đầu tháng 11/ 1873, do sự nhu nhược của triều đình phong kiến
Nguyễn, thực dân Pháp liên tục lấn tới, ngày 12/11/1873 F.Garrnier gửi
tối hậu thư, đòi Nguyễn Tri Phương phải hạ vũ khí và giao nộp thành
Hà Nội và một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Dưới sự chỉ đạo trực
tiếp của Nguyễn Quang Bích và Lưu Vĩnh Phúc nghĩa quân “Thập Châu” bao
gồm hơn 800 nghĩa binh cùng với hơn 1,6 vạn dân binh đã sang Lào Cai
phối hợp với đạo quân Tam Tuyên để về vây giặc ở thành Hà Nội, “Quan
tô mương” của Mường Lò viết: “Cả mười châu Thái đều theo ông Lưu đi
đánh giặc… Theo lệnh ông Lưu cùng “Thập Châu” đem quân đến Lào Cai
đểvề xuôi đánh giặc”[4].
Sau hơn bốn tháng chiến đấu, Pháp bị quân ta vây nhốt ở trong thành
trở nên hoang mang, ngày 21/12/1873 Garnier buộc phải mang quân ra Sơn Tây
để phá vòng vây. Song vừa đến Cầu Giấy thì quân Pháp rơi vào ổ phục
kích của ta, bị tiêu diệt gần hết, garnier cũng bị quân ta giết tại
trận[5].
Trong chiến thắng này, có sự đóng góp của nhân dân Tây Vắc.
Trong cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp tiến công thành Hà
Nội, mở đầu cho hành động xâm lược Bắc Kỳ lần thứ hai…[6]
nhân dân ở nhiều địa phương Tây Bắc đã tự mộ quân kiên quyết đứng lên
kháng chiến. Sau khi Tổng đốc Hoàng Diệu tự vẫn, thực dân Pháp đang
tìm mọi cách để mở rộng phạm vi đánh chiếm ở Bắc Kỳ, tiến lên
vùng “Thập Châu”, nơi thường xuyên bị giặc “Cờ Vàng” (tàn quân của
Thái Bình Thiên Quốc) phá phách, cướp bóc. Dưới sự chỉ đạo của
Nguyễn Quang Bích và Lưu Vĩnh Phúc đã bức được quân “Cờ Vàng” và
dàn xếp được sự bất hòa nội bộ giữa phe phái trong lực lượng chống
Pháp ở Tây Bắc. Lực lượng kháng chiến chống Pháp ở vùng “Thập Châu”
cũng có dịp phát triển mạnh mẽ hơn. Nghĩa quân “Thập Châu” một mặt
tích cực củng cố, xây dựng các căn cứ kháng chiến ở thượng lưu sông
Đà và dọc sông Thao, một mặt vẫn tiếp tục theo đường Thanh Sơn – Thu
Cúc sang Sơn Tây kéo quân về để vây giặc ở Hà Nội. Với lực lượng
đông đảo trên 1000 người và khoảng 2000 dân binh, nghĩa quân Tây Bắc đã
đảm nhiệm một hướng quan trọng ở phía Tây thuộc khu vực Cầu Giấy và
toàn bộ phủ Hoài Đức (Hà Tây). Trong suốt quá trình vây giặc ở Hà
Nội, nghĩa quân “Thập Châu” chiến đấu kiên cường, áp dụng chiến thuật
bắn tỉa để tiêu hao sinh lực địch và đêm đêm dùng thang tre vượt thành
vào quấy nhiễu địch, gây cho chúng nhiều thiệt hại…[7].
Sau gần một năm bị vây nhốt trong thành, thực dân Pháp bị dồn vào tình thế khốn quẫn tưởng
chừng như ngột ngạt đến khó thở; chính bọn cùng đã phải thừa nhận:
“Quân lính bị bao vây trong thành Hà Nội tưởng như thiếu không khí để
thở…”[8].
Trong tình hình quẫn bách đó, không có cách nào khác, mờ sáng ngày
19/5/1883, Henri Rivière (Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Bắc Kỳ) đã
phải liều chết dẫn 550 lính cùng 3 cỗ đại bác yểm trợ đánh ra Cầu
Giấy và phủ Hoài Đức (Hà Tây). Tại dây nghĩa quân “Thập Châu” cùng
với quân “Cờ Đen” đã mai phục sẵn và chiến đấu hết sức dũng cảm.
Sau hơn 2 giờ chiến đấu đến khoảng 7 giờ sáng quân ta đánh bại hoàn
toàn âm mưu phá vòng vây của giặc Pháp, giết chết tại trận
H.Rivière. Tinh thần chiến đấu của nghĩa quân “Thập Châu” đã được phản
ánh trong “Quan Tô mương” của Mường La Quan Đề tướng (tức Lưu Vĩnh
Phúc) sai tướng Ba Dếnh (tức Lưu Bá Anh) cùng binh Ngô (người Hoa),
Thái, dàn binh hai mặt đánh Tây, còn mình cầm binh đánh chặn mặt sau.
Khi lâm trận, Tây bắn trọng thương tướng Ba Dếnh nhưng ông lập tức bắn
trả. Đạn của ông Ba Dếnh trúng tên quan năm,chỉ huy quân Tây chết…”[9].
Chiến thắng Cầu Giấy lần thứ hai của nghĩa quân “Thập Châu” vùng Tây
Bắc và đạo quân Tam Tuyên đã làm lung lay ý đồ xâm lược nước ta của
thực dân Pháp. Thắng lợi này đúng ra cần phải được phát huy nhưng do
bản chất bạc nhược, ươn hèn của triều đình phong kiến Nguyễn sợ các
lực lượng kháng chiến hơn sợ giặc, lại ra lệnh triệt thoái các lực
lượng chống Pháp và chấm dứt các hoạt động quân sự ở khu vực Hà
Nội để triều đình thương lượng với Pháp mong sao chúng tự rút khỏi
Bắc Kỳ như hồi năm 1873. Tuy nhiên với truyền thống yêu nước, tinh thần
chiến đấu quả cảm, Nguyễn Quang Bích và các thủ lĩnh nghĩa quân
“Thập Châu” vùng Tây Bắc cùng đạo quân Tam Tuyên vẫn tiếp tục ở lại
vây thành Hà Nội them một thời gian nữa, đến cuối tháng 6 đầu tháng
7 mùa mưa, nước lũ không có lợi cho các hoạt động quân sự, nghĩa quân
buộc phải rút về căn cứ Sơn Tây[10].
Từ năm 1883 tình hình có nhiều chuyển biến tích cực, phong
trào chống Pháp của nhân dân ta sục sôi khắp các địa phương trong cả
nước. Đứng đầu phe chủ chiến, Tôn Thất Thuyết thường xuyên liên hệ và
luôn luôn ủng hộ phong trào chống Pháp của nhân dân ta trong đó có
phong trào chống Pháp của nhân dân các dân tộc Tây Bắc…Có chỗ dực là
phe chủ chiến. Nguyễn Quang Bích cùng các thủ lĩnh nghĩa quân vùng
“Thập Châu” không những một lòng kiên định tinh thần chống Pháp, kháng
lệnh triều đình không chịu rút quân mà còn trực tiếp cùng đạo quân
Sơn Tây chống thực dân Pháp xâm lược khi chúng mở rộng phạm vi đánh
chiếm lên căn cứ Sơn Tây, vùng Tây Bắc và thượng lưu sông Đà. Khi thực
dân Pháp chiếm Sơn Tây ngày 16 – 17/12/1883 nghĩa quân một mặt rút về
tích cực lập tuyến phòng thủ ở Yên Lập (Phú Thọ) để bảo vệ thành
Hưng Hóa, Phủ Lạng Thương và Tuyên Quang… Đến khi thành Hưng Hóa thất
thủ (ngày 12 tháng 4/1884) nghĩa quân “Thập Châu” lại rút về tiếp tục
xây dựng căn cứ chống Pháp ở dọc sông Thao.
Sauk hi triều đình phong kiến Nguyễn ký với Pháp điều ước
Patenotre (ngày 6/6/1884) thừa nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Bắc Kỳ
và ngày 9 tháng 6 năm 1885 triều đình Mãn Thanh cũng ký với Pháp
hiệp ước Thiên Tân. Theo hiệp ước, triều đình Mãn Thanh buộc phải rút
các lực lượng đã đưa sang nước ta từ khi Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ
hai (25/4/1882)[11].
Tình hình đó làm cho phong trào chống Pháp ở nước ta nói
chung và phong trào chống Pháp ở “Thập Châu” nói riêng có những diễn
biến phức tạp, nhìn chung có phần bị suy giảm. Trong lúc khó khăn,
mâu thuẫn trong nội bộ những người lãnh đạo nghĩa quân lại nảy sinh;
hàng ngũ nghĩa quân có sự phân hóa, một số thủ lĩnh quá mệt mỏi
như Cầm Bun Hoan, Nguyễn Văn Quang là những người đầu tiên đã ra hàng
giặc, một số thủ lĩnh bỏ về quê nằm im.
Chỉ còn một số ít thủ lĩnh như Sa Văn Nọi (Mộc Châu), Điêu Văn
Toa (Phong Thổ)…vẫn kiên định cùng với Nguyễn Quang Bích tiếp tục gây
dựng lại phong trào chống Pháp ở vùng “Thập Châu” Tây Bắc.
Tháng 7/1885 vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương, phong trào Cần
Vương bùng nổ ở khắp các tỉnh miền Trung và Bắc Kỳ, nhiều văn thân,
sĩ phu hưởng ứng chiếu Cần Vương đã vận động nhân dân nổi dậy chống
Pháp, điển hình là các cuộc khởi nghĩa Ba Đình, bãi Sậy, Hương Khê…
Ở “Thập Châu” từ khi thành Hưng Hóa thất thủ, Nguyễn Quang Bích cùng
nghĩa quân tiếp tục dựa vào vùng rừng núi Hưng Hóa để xây dựng căn
cứ chống Pháp ở dọc sông Thao. Trong điều kiện hết sức khó khăn,
Nguyễn Quang Bích vẫn kiên định tinh thần chống Pháp, ông đã trực
tiếp chỉ huy việc xây dựng căn cứ chống Pháp mà trung tâm lúc này là
vùng Đại Lịch, Mường Cơi, Thu Cúc, Lai Đồng (Nghĩa Lộ), Yên Lập (Vĩnh
Phúc), Vạn Yên, Phù Yên, Mộc Châu (Sơn La), Phong Thổ (Lai Châu). Ở đây
đồng bào các dân tộc Mường, Thái, Dao, Mông đã đoàn kết một lòng
dưới ngọn cờ nghĩa của vị thủ lĩnh Nguyễn Quang Bích kiên quyết
chống Pháp, làm cho chúng gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình
đánh chiếm khu vực Tây Bắc và vùng thượng lưu sông Đà…Từ năm 1887 –
1889 sau khi được tăng viện, thực dân Pháp dựa vào một số thủ lĩnh
nghĩa quân đã hàng giặc dẫn đường đánh mạnh vào các căn cứ chống
Pháp ở dọc sông Thao, Nghĩa Lộ, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Lai Châu. Đặc
biệt, ngày 10/10/1889 thực dân Pháp từ Bắc Ninh mở cuộc tiến công lớn
vào đại bản doanh của phong trào chống Pháp ở vùng “Thập Châu” Tây
Bắc tại xã Mộ Xuân – Yên Lập – Phú Thọ[12].
Trong điều kiện hết sức chênh lệch nên đại bản doanh của nghĩa quân ở
Mộ Xuân nhanh chóng bị thực dân Pháp đánh chiếm. Căn cứ chống Pháp ở
Tây Bắc cũng lần lượt tan vỡ…Kết thúc một thời kỳ đấu tranh oanh
liệt chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân các dân tộc Tây Bắc.
ß
Trường Đại học Tây Bắc
[1] Việt
Nam những sự kiện (1858 – 1918), Dương Kinh QỐc, NXB Giáo dục Hà Nội,
năm 2001, tr. 286
[2] Các
tộc người ở Tây Bắc Việt Nam, Ban dân tộc Khu tự trị Tây Bắc xuất
bản năm 1972
[3] Nhân dân
các tỉnh Tây Bắc chống thực dân Pháp xâm lược (1858 – 1930). Bản sơ
thảo của Bùi Tịnh, Cầm Trọng – ban bân tộc Khu tự trị Tây BẮc ấn
hành năm 1972, tr. 33 – 37.
[4] Quan tô
mương của Mường Lò, kể chuyện bản nường của Mường Lò (bản viết
tay). Tư liệu điền dã tại Mường Lò – Nghĩa Lộ tháng 5/2000
[5] Quan tô
mương của Mường Lò, kể chuyện bản nường của Mường Lò (bản viết
tay). Tư liệu điền dã tại Mường Lò – Nghĩa Lộ tháng 5/2000
[6] Việt
Nam những sự kiện lịch sử (1858 – 1918). Dương Kinh Quốc. NXB Giáo dục.
Hà Nội năm 2001, tr. 217
[7] Quan tô
mương của Mường Piềng (Thuận Châu – Sơn La). Kể chuyện bản mường của
Mường Piềng (bản viết tay). Tư liệu điền dã tại Mường Piềng – Thuận
Châu – Sơn La tháng 7/2001
[8] Nhân dân
các dân tộc Tây Bắc chống thực dân Pháp xâm lược (1858 – 1930). Bản sơ
thảo của Bùi Tịnh, Cầm Trọng – Ban dân tộc Khu tự trị Tây Bắc ấn
hành năm 1972, tr. 27
[9] Quan tô
mương của Mường La (Sơn La). Kể chuyện bản mường La (bản viết tay). Tư
liệu điền dã tại Mường La tháng 7/2001
[10] Nhân
dân các dân tộc Tây Bắc chống thực dân Pháp xâm lược (1858 – 1930). Bản
sơ thảo của Bùi Tịnh, Cầm Trọng – Ban dân tộc Khu tự trị Tây Bắc ấn
hành năm 1972, tr. 27 - 28
[11] Dương
Kinh Quốc, Việt Nam Những sự kiện lịch sử (1858 – 1918). NXB Giáo Dục.
Hà Nội năm 2001, tr. 149.
[12] Dương
Kinh Quốc, Việt Nam những sự kiện lịch sử (1858 – 1918), NXB Giáo Dục,
Hà Nội năm 2000, tr. 136
No comments:
Post a Comment