Từ thời kỳ Hùng Vương, qua hơn 10 thế kỷ Bắc thuộc và suốt các triều
đại phong kiến dân tộc, sức mạnh lực lượng vũ trang của nhân dân ta đã từng
đánh bại nhiều đội quân hùng mạnh, do những “Phục ba tướng quân”, những viên
tướng dày dạn trận mạc, những hoàng tử, thái tử chỉ huy. Động lực chủ yếu của
mọi chiến thắng là cuộc chiến tranh nhân dân khiến cho bất cứ kẻ thù nào cũng
“Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư” (Lý Thường Kiệt), nếm múi thất bại ở sông Bạch
Đằng, phải “vẫy đuôi xin tha chết” (Nguyễn Trãi), và “biết nước Nam có
chủ” (Nguyễn Huệ, Quang Trung).
Sức mạnh của các lực lượng vũ trang được nhân lên còn nhờ việc tổ chức,
lãnh đạo, chỉ huy tài giỏi, tạo được sự thống nhất, trên dưới một lòng, thân
thiết như anh em, cha con. Sự kết hợp giữa nhân dân và triều đình thời phong
kiến dân tộc ta đang lên là một cơ sở quan trọng để xây dựng và tiến hành cuộc
chiến tranh nhân dân có hiệu quả cao trong chiến đấu chống ngoại xâm. Chính
sách “ngụ binh ư nông” được thực hiện dưới những hình thức, mức độ khác nhau từ
thời Lý, qua Trần, đến Lê, đã mang một nội dung chung là cho quân lính luân
phiên luyện tập tái ngũ và về nhà cày ruộng. Điều này làm cho quân đội được
tinh nhuệ mà không đông, không trở thành gánh nặng cho nhà nước, nhân dân được
huấn luyện quân sự, có ý thức quốc phòng toàn dân, lại đảm nhận được việc cấy
cày để phát triển sản xuất nông nghiệp. Chính sách “ngụ binh ư nông” là “chính
sách tiến bộ, làm cho dân giàu, nước mạnh…một bộ phận hợp thành trong chính
sách trị nước và kế sách giữ nước, đáp ứng quyền lợi của dân tộc, nhất là giai
cấp nông dân, do đó đã động viên được toàn dân, đặc biệt là nông dân tham gia
xây dựng lực lượng vũ trang phòng giữ đất nước”[1].
Chính sách “ngụ binh ư nông” được ban hành và thực hiện thành công vì
các triều đại phong kiến dân tộc dang lên đã tiêu biểu cho dân tộc lúc bấy giờ,
biết kết hợp quyền lợi dân tộc với quyền lợi giai cấp, dám và biết dựa vào dân
để phòng giữ đất nước và ngai vàng của mình. “Đó cũng là phép hay của thời cận
cổ”[2].
Triều Nguyễn được xác lập không phải để đối phó và chuẩn bị chiến tranh
xâm lược, cũng không phải do đấu tranh giành độc lập làm cho nhân dân thoát
khỏi ách đô họ của bọn thống trị nước ngoài mà là kết quả của việc đánh bại
phong trào Tây Sơn. Do đó, ngay từ đầu mâu thuẫn giữa Triều Nguyễn với nông dân
trong cả nước vẫn gay gắt, dù mức độ có giảm đi so với thời trước.
Vì vậy, triều Nguyễn không thực hiện triệt để chế độ “ngụ binh ư nông”
như thời Lý, Trần, Lê mà tập trung xây dựng quân đội vững mạnh của mình.
Về mặt xây dựng lực lượng vũ trang, cũng phải thấy rằng các chúa và vua
Nguyễn có khá nhiều kinh nghiệm, vì phải đối phó với quân đội hùng mạnh, các
tướng lĩnh tài giỏi, có tinh thần chiến đấu cao của Tây Sơn. Những kinh nghiệm
của Nguyễn Ánh trong thời kỳ chống Tây Sơn cũng được sử dụng trong xây dựng
quân đội từ sau 1802. Ngoài ra, trong xây dựng quân đội, các vua đầu tiên của
triều Nguyễn cũng chịu ảnh hưởng khá nhiều về mặt kỹ thuật và tư tưởng quân sự
của phương Tây. Điều này được thể hiện trong việc xây thành theo kiểu Vauban,
chế tạo thuyền máy, tổ chức hành quân. Một nhà quan sát đương thời người Pháp
đã nhận xét về ảnh hưởng của phương Tây đối với quân đội triều Nguyễn như sau:
“Những cuộc hành quân của vua xứ Nam Kỳ giống kỳ lạ về tổ chức và vũ khí, nhất
là chịu ảnh hưởng của các nhà quân sự Pháp cuối thế kỷ XIX”[3].
Tuy nhiên, chúng ta không thể không thừa nhận rằng, quân đội vào đầu
triều Nguyễn cũng có những cải cách nhất định và khá mạnh, so với nhiều nước
trong khu vực. về số lượng, đội quân thường trực của nhà Nguyễn khá đông. Theo “Đại Nam thực lục”, số quân vào cuối
thời Gia Long (1820) là hơn 204.220 người đến cuối đời Minh Mệnh (1840) đã tăng
212.090 người. “Ước tính các loại là 4
vạn bộ binh bảo vệ Triều đình Trung ương, 15.000 thủy binh và 10 vạn biền binh.
Ngoài ra còn có một đạo tượng binh mạnh
(riêng ở kinh thành có 105 thớt voi với 500 quân, Bình Định có 15 thớt voi với
223 quân…) và một lực lượng pháo binh lớn (các thành, tỉnh đều có
đại bác: Hà Nội 150 cỗ, Nam Định, Hải Dương, Sơn Tây, Bắc Ninh đều có 200 cỗ
v.v… các thành phủ, huyện cũng đặt đại bác…), thêm một số quân dùng súng tay.”[4].
Vũ khí tuy chưa đạt trình độ kỹ thuật cao, còn các loại vũ khí cổ
truyền – gươm, giáo, cung tên, súng hỏa mai, song cũng có nhiếu cải tiến, nhất
là tàu thuyền và đại bác.
Thuyền máy chạy bằng hơi nước (“thuyền hỏa cơ”) gồm nhiều loại: to (“Điện Phi”), vừa (“Yên Phi”), nhỏ (“Vân
Phi”), phần lớn mua của nước ngoài về sử dụng. Thuyền máy này so với các loại
thuyền bằng đồng, bằng gỗ trước đây là một tiến bộ vượt bậc về trọng tải và tốc
độ. Về điều này, “Đại Nam thực lục chính
biên” đã ghi như sau: “Từ trước đến nay, các thuyền bằng đồng từ ngoài biển
quyai lái về vẫn đến hàng tháng, thế mà thuyền “Điện Phi” từ ngoài biển về
không đầy vài ngày đã đến cửa biển Cần Thơ, tỉnh Gia Định lấy củi và nước rồi
lại nhổ neo chạy đến Kinh. Quan tỉnh nhằm ngay ngày ấy cho ngựa chạy vào Kinh
tâu. Khi tờ tâu đến thì chiếc thuyền ấy đã dới cửa biển Thuận An đến Kinh trước
rồi. Kể từ cửa biển Cần Thơ đến Kinh, lệ thường đi ngựa phải mất 4 ngày 6 giờ 5
khắc, thuyền Điện Phi chỉ chạy 3 ngày 6 giờ, thế là nhanh hơn ngựa đi đường bộ
1 ngày 5 khắc[5]. Không
chỉ mua thuyền máy loại lớn để sử dụng mà các vua Triều Nguyễn cũng động viên
các quan học tập phỏng theo thuyền máy phương Tây để chế tạo.Vua Thiệu Trị đã
dụ cho bộ Công: “Việc là việc máy móc phỏng theo đó mà làm, cũng có chút phương
pháp…”[6].
Hiện nay chưa có sách nào ghi chép việc phỏng theo thuyền máy phương Tây để chế
tạo thuyền máy Việt Nam
có kết quả gì không. Dù sao, ý tưởng của các vua triều Nguyễn cũng thể hiện ý
thức cách tân quân đội.
Đối với thuyền máy bọc đồng, thuyền gỗ dung để hoạt động ngoài đại
dương hay vận chuyển hàng hóa trong nội địa cũng được các vua nhà Nguyễn đóng,
tu sửa với nhiều hạng lớn nhỏ khác nhau.
Thuyền bọc đồng “Thái Loan” đóng xong vào tháng 8 năm Ất Tỵ (1845) đời
vua Thiệu Trị là thuyền lớn nhất lúc bấy giờ. Các loại thuyền gỗ thì tỉnh nào
cũng được đóng: “các tỉnh ven biển…mỗi tỉnh đóng 2 chiếc, còn tỉnh nào mà phận
biển rộng thì đóng 3 – 4 chiếc, đều gọi là thuyền tuần dương”[7]
Về Thủy binh, thời Nguyễn có
6 vệ thủy quân đóng ở kinh đô, ngoài ra còn có thủy quân được trang bị đại bác
đóng trong đồn lũy ở các tỉnh ven biển, nhất là ở các hải cảng những nơi xung
yếu. Chỉ riêng dưới thời Gia Long số thủy quân đã lên tới 17. 000 người với 3
chiến thuyền kiểu phương Tây, 100 chiến thuyền lớn được trang bị máy bắn đá và
đại bác, 200 chiến thuyền nhỏ bọc đồng mội thuyền được trang bị 16 – 20 đại
bác; 500 chiến thuyền nhỏ hơn có máy bắn đá và một đại bác.
Về bộ binh thì khá hoàn
chỉnh. Đội quân thường trực đông hàng mấy vạn người được tuyển lựa theo chế độ
binh dịch. Theo quy định, cứ 3 – 4 suất đnh thì lấy một lính, song trên thực tế
thì lại tuyển một quá số lượng này. Chẳng hạn, theo thống kê, số đinh năm 1820
là 620.240, mà số lính lại tuyển lại đến 204.220 người (bằng 1/3 số đinh). Hơn
nữa, số lính tuyển mộ lại tập trung vào những người nông dân nghèo khổ; còn con
em các phú hào, quan lại thì được miễn hoặc thuê người đi thay. Cũng do chế độ
“ngụ binh ư nông” không được thực hiện triệt để nên số người lao động nông
nghiệp cũng giảm đi. Để làm cho binh lính gắn bó với triều đình, triều Nguyễn
đã đặt chế độ ruộng lương rất hậu (cấp 7 sào đến 1 mẫu cho mỗi binh lính, ngoài
ra họ vẫn được hưởng một số ruộng quân cấp khá lớn).
Đội quân đông, được tổ chức, tập luyện, trang bị khá tốt. Bộ binh gồm có hai loại: kinh binh và cơ binh. Kinh binh trấn giữ kinh thành, cơ binh đóng ở các tỉnh. Về biên chế, quân đội theo hệ thống tổ
chức như sau: đơn vị sơ sở là ngũ (5
người), tiếp đó là thập (10 người = 2
ngũ), rồi đội (50 người = 5 thập), vệ (500 người = 10 đội), doanh (2500 người = 5 vệ). Một vệ được trang bị 2 khẩu
thần công, 200 khẩu điểu thương. Vũ khí, như đã nói, không được hiện đại mà số
lượng cũng không nhiều: dưới thời Tự Đức bộ binh chủ yếu dung giáo mác và sung
điểu thương, song 10 người mới có 1 khẩu sung (mỗi đội 50 người trang bị 5
súng). Số đạn dược cũng rất hạn chế, nên việc tập bắn cũng rất ít (mội năm chỉ
tập bắn 1 lần mà mỗi người lính chỉ được bắn 6 phát). Để “hiện đại hóa” quân
đội, vua Tự Đức cũng ta lệnh phải mua sung của nước ngoài và đúc them súng ở
trong nước. Tuy nhiên, việc mua súng ở nước ngoài và chế tạo súng trong nước
vẫn theo kiểu cũ: Sau này, một sĩ quan trong quân đội Pháp đánh chiếm Nam Kỳ đã
nhận định về tình trạng vũ khí của quân đội thời Tự Đức như sau: “Vũ khí của
người Nam dung rất nhiều và khác nhau, súng thì có những đại bác đủ cỡ mà phần
nhiều là loại nhỏ, những súng trường miệng loe (espingoles), những bích kích
pháo, súng đá nhãn hiệu của xưởng Saint Eyienne và chính là kiểu súng của quân
đội Pháo trước năm 1830, tức là trước khi có sự thay đổi vũ khí. Hình như có
một người nào đó đã mua lại tất cả súng trường phế thải và đem bán cho người
Nam; hắn ta không ngờ rằng, những súng của ta trở ngược chống chúng ta…Họ cũng
dùng những thứ đinh ba cắm ở đầu một cán tre và ba cạnh châu đầu vào một điểm;
vũ khí này rất lợi hại và nguy hiểm, khốn cho ai đứng trước mũi đinh ba…những
đinh ba đó được họ dung nhất là để mang kẻ thù đi lúc đã họ bị đâm”[8].
Điểm qua một số nét về tình hình quân đội thời Nguyễn, vào nửa đầu thế
kỷ XIX, chúng ta thấy rằng, quân đội của nước ta thời kỳ này đông và mạnh;
trang bị vũ khí tuy không theo kíp trình độ hiện đại của lực lượng quân sự các
nước tư bản phương Tây, song không phải là quá kém cỏi, cũng có đủ loại binh
chủng, vũ khí, có khả năng bảo vệ Tổ quốc kh bị xâm lược. Về tổ chức, biên chế thì quân đội nhà
Nguyễn cũng đạt trình độ chính quy, được cấu tạo chặt chẽ, chỉ huy thống nhất.
Các thành lũy bố phòng, bảo vệ kinh thành, các tỉnh thành, những nơi hiểm yếu
cũng khá quy mô, hiện đại, kết hợ được những kinh nghiệm của ông cha với những kỹ thuật tiên tiến của những nướ phương Tây lúc bấy giờ. Tuy nhiên,
nhìn chung trình độ lực lượng quân sự của Nhà Nguyễn còn khá lạc hậu và thật
khó lòng chống lại đội quân xâm lược của thực dân Pháp. Song trình độ, lực
lượng quân đội cũng chỉ là một mặt, chưa có tính chất quyết định đối với sự
thắng bại. Cũng không phải hễ quân đội xâm lược nước ngoài đông hơn, mạnh hơn
thì chúng tất yếu sẽ đánh bại đội quân nước nhỏ yếu, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Như đã trình bày ở trên, nhân dân ta luôn luôn phải đối phó với nhiều nước hùng
mạnh mà vó ngựa của chúng đã dày xéo nhiều nước trên thế giới. Yếu tố quyết định không phải là vũ khí
mà là tinh thần, sức chiến đấu của
quân đội, đặc biệt là việc huy động sức mạnh của toàn dân để chống ngoại xâm.
Triều Nguyễn, so với những triều đại Lý, Trần, Lê, Quang Trung đã thiếu
một nhân tố quan trọng bậc nhất đê
đánh thắng ngoại xâm.
Đó là “nhân hòa” – lòng
người. Dưới thời các vua Nguyễn, lòng dân không được quy tụ, sức dân không được
khai thác mạnh mẽ như trước. Ngay cả binh lính, tuy được triều đình ban nhiều
quyền lợi, bổng lộc song cũng không hết long trung thành với nhà vua mà còn tỏ
ra bất bình. Cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi là một dẫn chứng cụ thể về thái độ
của binh lính đối với triều đình. Tham gia lực lượng nổi dậy chống triều đình
của Lê Văn Khôi ở Gia Định chủ yếu lại là binh lính. Cần thấy rõ rằng, đất Gia
Định được xem là cơ sở của Nguyễn Anh để đánh thắng Tây Sơn. Lê Văn Khôi lại là
con nuôi của Lê Văn Duyệt – một công thần bậc nhất của nhà Nguyễn. Vốn không ưa
Lê Văn Duyệt, vua Minh Mệnh đã dựng lên “vụ án Lê Văn Duyệt – san bằng mồ mả,
tịch thu gia sản, bắt hết vợ con, Lê Văn Khôi cũng bị giam. Được sự ủng hộ của
binh lính, Lê Văn Khôi đã vượt ngục nổi dậy chiếm thành Phiên An.
Cuộc nổi dậy bị đàn áp, song thể hiện mâu thuẫn, sự bất bình sâu sắc
của nhân dân Gia Định, binh lính đối với triều đình.
Một điểm khác mà chúng ta cũng cần lưu ý là trước đây, trong lúc chống
ngoại xâm hầu như không có khởi nghĩa nông dân chống lại triều đình; trừ những
phần tử phản quốc, nghịch tặc theo giặc. Thế nhưng trong thời Nguyễn, khi tiến
hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, phong trào nông dân chống triều đình
vẫn bùng nổ nhiều nơi, một vài cuộc nổi dậy bị kẻ thù lợi dụng, chia rẽ dân
tộc, làm suy yếu lực lượng kháng chiến, như cuộc nổi dậy của Tạ Văn Phụng.
Từ đó, có thể đi đến kết luận rằng, nhà Nguyễn chăm lo xây dựng quân
đội, củng cố quốc phòng, chú trọng rèn đúc, trang bị vũ khí, làm cho quân đội
không phải suy yếu mà có thể liệt vào loại mạnh trong khu vực. Song nhà Nguyễn
không huy động được sức dân , không tập hợp được nhân dân để chống ngoại xâm,
vì bản chất của mình, phong kiến nhà Nguyễn lúc bấy giờ đã giảm sút tinh thần
chiến đấu, bạc nhược, cuối cùng đầu hàng, làm tay sai cho thực dân Pháp, trong
khi nhân dân quyết kháng chiến, cùng với triều đình chống ngoại xâm, rồi không
tuân lệnh và chống lại triều đình nhượng bộ, đầu hàng. Với lực lượng, truyền
thống chiến đấu, tinh thần và kinh nghiệm kháng chiến của nhân dân, nếu các vua
Nguyễn biết tổ chức, chỉ huy, giữ vũng ý chí chiến đấu tranh như các triều đại
trước thì không dễ gì thực dân Pháp đã đánh thắng và xâm chiếm được nước
ta. Điều này thể hiện trách nhiệm cũng
như tội của vua quan nhà Nguyễn làm mất nước ta vào tay thực dân Pháp.
Ù
Viện lịch sử quân sự - Bộ Quốc phòng.
[1] Phan Thế
Vỵ: Nhân tố văn hóa trong truyền thống quân sự Việt Nam , NXB CTQG , Hà Nội, 1999, tr.
43.
[2] Phan Huy
Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992, Tập 3,
tr. 31.
[3] Trích
dẫn theo Nguyễn Phan Quang (Chủ biê): Tiến trình lịch sử Việt Nam , NXB Giáo Dục, Hà Nội, 2000,
tr. 206.
[4] Chủ
biên: Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn: Đại cương lịch sử Việt Nam ,
NXB Giáo Dục, Hà Nội, 2001, tr. 440.
[6] Sđd, tập
26, tr. 268.
[7] Sđd, tập
28, tr. 111.
[8] Trích
dẫn theo Vĩnh Hồ: Tổ chức quân đội và vũ khí quân dụng Việt Nam dưới triều Nguyễn. Tạp chí lịch
sử quân sự, số 7 (43), 1989, tr. 64.
No comments:
Post a Comment