Nhà thơ yêu nước nổi tiếng ở Nam Bộ, người làng Tân Hội, huyện Tân Long,
tỉnh Gia Định, thi đậu cử nhân năm Tân Mão (1831) và ra làm quan dưới triều Tự
Đức*. Năm 1861 thực dân Pháp hạ được Đại đồn Chí Hòa rồi đem quân đánh Định Tường.
Huỳnh Mẫn Đạt, lúc ấy đang giữ chức Án sát Định Tường, cùng Tuần phủ Nguyễn Hữu
Thành, Tổng đốc Nguyễn Công Nhàn tổ chức chặn đánh cánh quân Pháp tiến theo rạch
Bảo Định. Tuy nhiên, do quân đội triều đình mất tinh thần chiến đáu, thành Mỹ
Tho đã mau chóng lọt vào tây quân Pháp. Huỳnh Mẫn Đạt và các quan có trách nhiệm
bị triều đình cách chức, bắt giải về kinh trị tội nhưng sau đó ông được tha để
theo Nguyễn Tri Phương lo đánh lấy lại Biên Hòa. Thế nhưng sau đó Triều đình Huế
chịu nhường ba tỉnh miền Đông cho Pháp. Huỳnh Mẫn Đạt được cử làm Tuần phủ Hà
Tiên. Khi cả sáu tỉnh Nam Kỳ rơi vào tay thực dân Pháp, ông cáo quan về sống tại
Kiên Giang. Ông thường qua lại Bình Thủy (Cần Thơ) cùng bàn bạc, ngâm vịnh với
người bạn tâm giao là Bùi Hữu Nghĩa*. Huỳnh Mẫn Đạt nổi tiếng giỏi thơ nôm. Mặc
dù không trực tiếp tham gia nghĩa quân chống Pháp hay tích cự dùng văn thơ tiến
công kẻ thù như Nguyễn Đình Chiểu*, Phan Văn Trị* nhưng ông đã nêu cao được
thái độ bất hợp tác với thực dân, lòng yêu nước, sự ngưỡng mộ đối với những anh
hùng đã hy sinh trong cuộc kháng chiến vệ quốc.
Tương truyền có lần ông lên Sài Gòn chơi, nhân đi qua Bồn Kèn (trước tòa
nhà Ủy ban Nhân dân thành phố ngày nay), bất ngờ gặp Tôn Thọ Tường* đi xe song
mã đến. Trước Tường và ông có quen biết. Ông không muốn gặp Tường nên vội núp
sau một gốc cây bên đường. Thế nhưng Tường đã nhìn thấy, cho dừng xe lại chào hỏi.
Huỳnh Mẫn Đạt làm một bài thơ tỏ ý phê phán Tường theo Pháp và nói lên thái độ
không hợp tác của mình. Tường họa ngay lại để phân trần. Huỳnh Mẫn Đạt liền đọc
thêm một bài thơ khẳng định lại ý mình:
“… Đã cam giấu mặt cùng non nước
Đâu dám nghiêng mày với ngựa xe
Chớ nói đổi dời sao cốt cách
Xưa nay nát giỏ hãy còn tre”.
Sau này Tường đã làm bài thơ Thà gặp
cọp chẳng thà gặp bạn để nói đến buổi gặp gỡ đó.
Khi được tin Nguyễn Trung Trực* bị quân Pháp hành quyết (1868), Huỳnh Mẫn
Đạt vô cùng đau xót và để tỏ lòng ngưỡng mộ sự hy sinh cao cả đó, ông đã làm
bài Điếu Nguyễn Trung Trực. Bài thơ
chữ Hán trong đó có câu:
“Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa
Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần”
được mọi người truyền tụng.
Tác phẩm của ông nay còn lại một số bài khác như Cây dừa, Chó già, Mưa đêm, Chiêu Quân xuất tái, Kỹ nữ qui y…
Ngoài ra ông còn góp phần hiệu đính tuồng Kim thạch kỳ duyên do Bùi Hữu Nghĩa soạn (cũng có nhà nghiên cứu
cho rằng chính ông là tác giả của tuồng này).
L.V.N.
No comments:
Post a Comment