Thursday, June 16, 2016

VAI TRÒ CỦA NHÀ NGUYỄN TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG VÀ VÀ TRÁCH NHIỆM ĐỂ MẤT NƯỚC (1858 – 1884)


PGS. TS. Trần Bá Đệß

Ngày 1/9/1858, thực dân Pháp nổ súng, bắt đầu cuộc xâm lược nước ta. Một phần tư thế kỷ sau (đến 1884) thì thực dân Pháp hoàn thành xâm lược nước ta với sự đầu hàng của Nhà nước phong kiến Nguyễn.
Trong một phần tư thế kỷ (1858 – 1884) tiến hành xâm lược nước ta, thực dân Pháp luôn gặp phải sự chống trả quyết liệt của quan quân Triều đình Huế và của toàn thể nhân dân ta.
Ngay từ lúc Pháp đánh chiếm Đà Nẵng, quân triều đình, có sự ủng hộ và phối hợp của nhân dân, đã chiến đấu chống lại quân xâm lược. Khi bị mất Sơn Trà vào tay Pháp, Triều đình Huế không chút do dự cắt chức người đứng đầu là Trấn thủ Trần Hoàng, cử Kinh lược Nguyễn Tri Phương làm Tổng thống quân thứ Quảng Nam, chỉ huy toàn bộ mặt trận Đà Nẵng – Quảng Nam.
Trước sức tấn công, bao vây, cô lập của quân dân ta, lại bị tổn thất nặng nề, nên sau 5 tháng, thực dân Pháp vẫn không thực hiện được mục đích buộc Triều đình HUế đầu hàng, kết thúc chiến nhanh chiến tranh, chúng phải rút đại bộ phận quân khỏi Đà Nẵng, mở mặt trận mới ở Gia Định (2/1858).
Tại mặt trận Gia Định, nhận được cấp báo thành Gia Định bị chiếm (17/2/1858), Triều đình Huế liền cử Thượng thư bộ Hộ Tôn Thất Cáp và Bố chính Nam Ngãi Phan Tĩnh điều quân các tỉnh Bình Định, Khành Hòa, Bình Thuận có khoảng 1.500 người cùng với những đạo quân ứng nghĩa vừa được thành lập, tham gia vào công cuộc đánh Pháp, đồng thời với lời kêu gọi nhân dân thực hiện “vườn không nhà trống”, không hợp tác với địch.
Trước tình hình đó, nhận thấy không giữ nổi thành Gia Định, ngày 8/3/1859 thực dân Pháp phải rút phần lớm quân khỏi nơi đây, ứng cứu cho lực lượng của chúng đang khốn ở Đà Nẵng. Một lần nữa, kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” của Pháp bị thất bại trước sức mạnh đấu tranh của quân dân ta, buộc chúng phải chuyển sang đánh lâu dài, xâm lược từng bước nước ta.
Tháng 3/1860, Nguyễn Tri Phương được điều từ Đà Nẵng thay Tôn Thất Cáp, giữ chức vụ Tổng thống quân vụ chỉ huy mặt trận Gia Định. Chính trong thời gian này, diễn ra cuộc can thiệp vũ trang của Pháp và các nước tư bản phương Tây vào Trung Quốc, thực dân Pháp dốc toàn lực cho cuộc can thiệp, chỉ để lại ở Gia Định 1.000 quân, đóng rải trên một chiến tuyến 10 cây số (từ Cây Mây đến Thị Nghè) trong thế bị bao vây, cô lập gặp nhiều khó khăn. Thế nhưng, Nguyễn Tri Phương (cả Tôn Thất Cáp trước đó) vẫn “án binh bất động”, không chớp lấy thời cơ tiến công tiêu diệt, mà huy động toàn bộ sức lực của quân và dân tích cực xây dựng hệ thống phòng ngự kiên cố, lấy Đại đồn Phú Thọ (Chí Hòa) làm đại bản doanh, thực hiện chiến lược phòng thủ, cầm chân, không cho địch đánh rộng ra.
 Cuối tháng 2/1861, sau khi cùng với các nước tư bản phương Tây can thiệp vũ trang Trung Quốc, thực dân Pháp dồn quân vào mặt trận Gia Định, mở cuộc tiến công căn cứ Đại đồn Phú Thọ và nhiều căn cứ khác của ta với âm nưu chiếm Gia Định và toàn bộ Nam Kỳ lục tỉnh. Cuộc giao tranh diễn ra ác liệt. Không trụ nổi trước hỏa lực của địch. Nguyễn Tri Phương phải hạ lệnh cho quân lính bỏ Đại đồn rút về phía sau cố thủ (15/2/1861).
Sau khi chiếm xong Gia Định, quân Pháp đánh rộng ra nhiều nơi. Lần lượt ba tỉnh miền Đông (Gia Định, Định Tường, Biên Hòa) và một tỉnh miền Tây Nam Kỳ (Vĩnh Long) bị Pháp chiếm.
Đứng vững trên những vùng đất ở ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ và đảo Côn Lôn sau khi ký với triều đình Huế Điều ước Nhâm Tuất ngày 5/6/1862, và trước thế thuận lợi mới khi triều đình Huế chủ trương thương lượng, chuộc lại những vùng đất đã nhượng cùng với lệnh bãi binh, đàn áp khởi nghĩa, thực dân Pháp mở rộng đánh chiếm. Sáng ngày 20/6/1867, Pháp cho quân dàn trận trước thành Vĩnh Long, đưa tối hậu thư đòi Phan Thanh Giản – đại diện triều đình Huế, nộp thành. Phan Thanh Giản nộp thành Vĩnh Long cho Pháp, còn ra lệnh cho các quan cầm đầu hai tỉnh ở miền Tây là An Giang và Hà Tiên cũng phải nộp thành theo lệnh của Pháp ngày 24/6/1867, không còn sự chống cự nào.
Chiếm xong ba tỉnh miền Đông, rồi 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ và đảo Côn Lôn, thực dân Pháp âm mưu chiếm cả Bắc Lỳ và Trung Kỳ.
Chớp lấy thời cơ triều đình Huế yêu cầu “giải quyết vụ Dupuy” (thực chất là vụ giặc biển), ngày 11/10/1873 Thống đốc Nam Kỳ Dupré phái thiếu tá hải quân Garnier mang 180 quân ra Bắc, bề ngoài là “dàn xếp” công việc, nhưng bên trong là kiếm cớ can thiệp sâu vào Bắc Kỳ.
Đầu tháng 11/1873, vừa đặt chân lên Hà Nội, hội quân với Dupuy, Garnier cho quân nổ sung thị uy, đòi khai phóng song Hồng…Sáng 19/11/1873, garnier gửi tối hậu thư đòi nộp thành. Tổng đốc Hà Nội là Nguyễn Tri Phương đã cự tuyệt
Mờ sang 20/11/1873, với lực lượng 300 quân và 11 khẩu đại bác đặt trên hai tàu chiến, Garnier hạ lệnh nổ sung tấn công thành Hà Nội. Nguyễn Tri Phương bị trọng thương trong khi chỉ huy chiến đấu, Pháp bắt giữ và cố tình chạy chữa vết thương cho ông hòng mua chuộc về sau, nhưng ông đã nhịn ăn, không cho chạy chữa đến chết. Con trai ông là Nguyễn Lâm cũng chết vì trúng đạn địch.
Thành Hà Nội thất thủ, quân Pháp chiếm được thành, nhưng triều đình Huế không có hành động đối phó tích cực nào, mà vẫn tự hãm mình trong thế bị động thương thuyết. Thừa cơ hội đó, thực dân Pháp mở cuộc tấn công đánh chiếm các tỉnh, thành Hưng Yên, Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định…Nhưng ngay từ đầu cuộc đánh chiếm, Pháp gặp phải sức chống cự quyết liệt của quân dân Hà Nội và khắp nới ở Bắc Kỳ. Quân dân ta đã giành thắng lợi trong nhiều trận đánh, tiêu biểu là trong trong trận Cầu Giấy (21/12/1873).
Từ giữa 1874, sau khi đạt được Điều ước Giáp Tuất (15/3/1873) ký với triều đình Huế, trong đó triều đình Huế chính thức thừa nhận chủ quyền của Pháp ở sáu tỉnh Nam Kỳ, thực dân Pháp đẩy mạnh hoạt động chuẩn bị đánh chiếm Bắc Kỳ.
Tháng 3/1882, viện cớ triều đình Huế “vi phạm” Điều ước Giáp Tuất, Thống đốc Nam Kỳ phái đại tá Rivière mang 400 quân cùng 2 pháo thuyền ra Bắc. Đầu tháng 4/1882, vừa dặt chân lên Hà Nội, Rivière đã giở trò khiêu khích ta.
Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu, một mặt tích cực tổ chức, phòng thủ, mặt khác cấp báo vào Huế xin tăng viện, trước mắt xin điều quân Hoàng Tá Viêm về phối hợp chống địch. Nhưng Tự Đức không tán thành, cho phòng thủ như vậy không phải lúc, địch sẽ lấy cớ gây sự thêm.
Mờ sang 25/4/1882. Rivière gửi tối hậu thư, đòi Hoàng Diệu nộp thành. Hạn trả lời chưa hết, y đã ra lệnh nổ súng đánh thành. Quan quân ta kiên quyết chống lại.
Cuộc chiến đấu đang diễn ra ác liệt thì bỗng nhiên kho thuốc đạn trong thành bốc cháy,làm cho quan quân Hoàng Diệu dao động, hàng ngũ rối loạn. Thừa cơ đó, quân Pháp đột nhập chiếm thành. Đại quân ta tan rã. Hoàng Diệu gửi Di biểu cho triều đình rồi tuẫn tiết, nêu cao tinh thần yêu nước bất khuất, một lòng sống chết với thành.
Sau khi chiếm xong thành Hà Nội (lần thứ hai), một lần nữa, thừa cơ triều đình Huế tự hãm mình trong thế bị động thương thuyết, quân Pháp mở rộng đánh chiếm nhiều tỉnh vùng đồng bằng, vùng mỏ Hòn Gai, Quảng Yên, đánh chiếm thành Nam Định…Nhưng ngay từ đầu đánh chiếm, Pháp gặp phải sức kháng cự mạnh mẽ của dân ta ở Hà Nội và khắp ở Bắc Kỳ.
Tại Hà Nội, quân Pháp trong thành bị các đạo quân của Hoàng Tá Viêm, Lưu Vĩnh Phúc, Trương Quang Đản…bao vây, uy hiếp, mở những cuộc tiến công tiêu diệt, gây cho chúng nhiều thiệt hại nặng nề nhất là trong trận Cầu Giấy (lần hai) ngày 19/5/1883.
Sau trận Cầu Giấy, trước thái độ của triều đình Huế vẫn tiếp tục hãm mình trong thế bị động thương thuyết, thực dân Pháp đẩy mạnh ý đồ xâm lược toàn bộ nước ta.
Giữa tháng 7/1883. Đô Đốc Courbet cùng hạm đội do y chỉ huy đến Hải Phòng họp bàn kế hoạch đánh chiếm Huế với Cao Ủy mới Harmand. Đúng lúc đó, Tự Đức mất (17/7/1883), Triều đình Huế rơi vào tình trạng chia rẽ, lục đục trong vấn đề tôn vương Tự Đức không có con.
Chớp thời cơ, Pháp quyết định đánh thẳng vào Huế, buộc triều đình đầu hàng. Sáng 18/8/1883, hạm đội Pháp do Đô đốc Courbet chỉ huy tiến vào cửa biển Thuận An, đưa tối hậu thư buộc triều đình giao tất cả các pháo đài phòng thủ bờ biển cho chúng. Quân ta kháng cự quyết liệt. Cuộc đấu phào kéo dài 3 ngày liền. Tới chiều 20/8, quân Pháp mới đổ bộ được lên Thuận An.
Được tin Thuận Anm mất vào tay Pháp, triều đình vội xin đình chiến. Cao ủy Pháp Harmand đi ngay lên Huế buộc triều đình ký vào bản điều ước đã được thảo sẵn theo các điều kiện của chúng ngày 25/8/1883.
Điều ước Harmand là sự phản bội tệ hại nhất của triều đình Huế đối với nhân dân, nên bị nhân dân cả nước chống đối quyết liệt. Lệnh triệt binh và giải tán nghĩa quân của triều đình dưới áp lực của Pháp không được chấp hành. Nhiều quan lại ở các địa phương không chịu về Huế theo lệnh triều đình, mà ở lại mộ quân đánh địch. Ở triều đình, phái chống Pháp do Thượng thư Bộ binh Tôn Thất Thuyết đứng đầu ngày càng có hành động quyết liệt, như phế truất các vua có xu  hướng thân Pháp.
Đầu tháng 2/1883, sau khi nhận them viện binh, thực dân Pháp đẩy mạnh hành quân, mở rộng đánh chiếm nhiều nơi ở Bắc Kỳ. Quân Pháp hành quân đến đâu, quân Thanh rút lui đến đó, không hề chống lại. Pháp dùng áp lực buộc triều đình Mãn Thanh ký Điều ước ngày 11/5/1884 tại Thiên Tân, trong đó Mãn Thanh thừa nhận chủ quyền của Pháp ở Việt Nam và cam kết rút hết số quân đã tràn sang từ 1882 theo yêu cầu của triều đình Huế.
Trên đà thắng thế, Chính phủ Pháp cử Patenôtre đến Huế ép triều đình ký điều ước mới ngày 6/6/1884.
Điều ước Patenôtre về cơ bản dựa trên Điều ước Harman có sử một số điều, như trả lại 4 tỉnh Thanh – Nghệ - Tỉnh và Bình Thuận cho triều đình Huế quản lý.
Điều ước Patenôtre (6/6/1884) đã xác lập quyền đô hộ lâu dài của Pháp ở Việt Nam. Đến đây nhà nước Phong kiến Nguyễn đã đầu hàng hoàn toàn thực dân Pháp xâm lược.
Điểm qua quá trình cuộc chiến đấu của quan quân triều đình Huế chống thực dân Pháp xâm lược từ 1858 đến 1884, ta thấy rõ một thực tế là triều đình Huế đã chiến đấu chống Pháp ngay từ đầu và trong suôt cả cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp. Cuộc chiến đấu chống Pháp của triều đình Huế luôn có sự ủng hộ và phối hợp chiến đấu của nhân dân. Trong chiến đấu, có những trận thắng và có những trận bại.
Chiến thắng một trận Đả Nẵng, mở đầu ngày 1/9/18858, đã gây cho Pháp nhiều tổn thất nặng nề, buộc chúng phải rút đại bộ phận quân ra khỏi Đà Nẵng, mở mặt trận mới ở Gia Định (2/1859). Tiếp đó là trận Gia Định từ giữa tháng 2 đến 3/1859, quân dân ta tiếp tục gây cho Pháp nhiều tổn thất, khó khăn và một lần nữa buôc chúng phải rút đại bộ phận quân khỏi Gia Định, ứng cứ cho lực lượng đang nguy khốn ở Đà Nẵng. Hai trận này của quân dân ta đã làm thất bại âm mưu “Đánh nhanh, thắng nhanh” của Pháp, buộc Pháp phải chuyển sang đánh lâu dài, xâm lược từng bước nước ta.
Chiến thắng vang dội nhất là trong hai trận Cầu Giấy (ngày 21/12/1873, ngày 19/5/1883), quân triều đình do Hoàng Tá Viêm chỉ huy phối hợp với quân Lưu Vĩnh Phúc chiến đấu đập tan hai cuộc hành quân của quân Pháp, một do thiếu tá Garnir – người đứng đầu quân Pháp xâm lược Bắc Kỳ lần thứ nhất, một do đại tá H.Rivière – người từng dẫn quân Pháp xâm lược Bắc Kỳ lần thứ hai chỉ huy và cả hai đều tử trận.
Sau mỗi thắng lợi, trong khi quân dân ta vô cùng phấn khởi, sẵng sang xông lên quyet1 sạch quân giặc, quân Pháp thì hoang mang, muốn bỏ thành chạy, nhưng triều đình Huế lại lo sợ, bỏ lỡ cơ hội, đã không dám hiệu triệu quan quân thừa thắng xốc tới, mà ra lệnh cho quan quân lui binh, để tạo không khí thuận lợi tiếp tục cuộc thương thuyết với Pháp, ký với Pháp những điều ước bất lợi cho ta.
Trước việc ba tỉnh miền Đông và một tỉnh miền Tây (Vĩnh Long) bị mất vào tay Pháp (đầu 1861 – đầu 1862), nhân dân ta ở miền Nam đẩy mạnh đấu tranh chống Pháp xâm lược.
Trong những năm 1862, phong trào nhân dân chống Pháp dâng cao ở hầu khắp các nơi, nhất là ở hai tỉnh Gia Định và Định Tường, đã đẩy thực dân Pháp vào tình thế hết sức khó khăn, bế tắc. Phó Đô Đốc R.de.Genouilly, Tổng chỉ huy quân đội Pháp xâm lược Việt Nam, đã phải cầu cứu viện binh từ Pháp, nhưng chính phủ Pháp không những không đáp ứng, rằng “Hồi này Nhà nước không thể nào tiếp tế thêm một người lính hay một tàu chiến nào nữu”, mà còn gợi ý “Liệu bề thương thuyết, điều đình với Chính phủ An Nam cho xong, nếu họ cam đoan từ nay về sau không ngược đãi tín đồ Thiên chúa giáo thì chúng ta chỉ có việc trả lại thành trì cho họ rồi rút binh về là hơn”[1] Renouilly cũng rất bi quan: “Bây giờ tôi không thể nói được đến chừng nào và bằng cách nào vấn đề Nam Kỳ sẽ chấm dứt”[2].
Chính trong lúc thực dân Pháp đang gặp khó khăn, bế tắc, thì triều đình Huế ký Điều ước ngày 5/6/1862, theo đó triều đình Huế cắt nhượng cho Pháp toàn bộ ba tỉnh miền Đông (Gia Định, Định Tường, Biên Hòa) và đảo Côn Lôn, trả cho Pháp 4 triệu đôla chiến phí…
Với Điều ước Nhâm Tuất (5/6/1862), triều đình Huế không những đã mở lối thoát khỏi tình trạng bế tắc cho Pháp, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho Pháp giữ vũng những vùng đất đã chiếm ở miền Đông Nam Kỳ, mở rộng xâm lược những vùng đất khác ở miền Tây Nam Kỳ.
Một người Pháp viết “May mắn thay, đang lúc phải đón đợi lấy một tình thế xấu, thì Huế lại yêu cầu ký hòa ước”[3] và “Người ta ngạc nhiên về sự dễ dàng của người An Nam (triều đình Huế), trước kia đã từng bác bỏ các ý định giảng hòa của chúng ta với bao nhiêu bực tức, đột nhiên lại yêu cầu đến một hiệp ước mà điều kiện hình như đắt giá với họ”[4]. Ngay cả tên Đô đốc Bonard cũng hết đỗi vui mừng trước thắng lợi bất ngờ và nhanh chóng của chúng sau khi ký kết điều ước: “Phải nói rằng tôi chỉ còn biết hài lòng về Chính phủ Tự Đức và những người thay mặt họ đã giúp đỡ tôi tại Nam Kỳ để cho hiệp ước được thi hành sớm chừng nào hay chừng ấy”[5].
Với Điều ước Nhâm Tuất, triều đình Huế đã thỏa hiệp với kẻ xâm lược, bắt tay với thực dân Pháp để rảnh tay đàn áp phong trào nông dân Bắc Kỳ và Trung Kỳ đang trên đà phát triển, nhằm bảo vệ quyền lợi ích kỷ của mình. Điều ước Nhâm Tuất thể hiện bước đầu hàng thực dân Pháp đầu tiên của triều đình Huế, đã tạo thêm khó khăn nặng nề cho phong trào kháng chiến của nhân dân, làm cho phong trào thiếu sự hỗ trợ của quân đội triều đình vì lệnh bãi binh, quân Pháp nhờ đó được rảnh tay để đàn áp phong trào.
Hành động đó của triều đình Huế tiếp tục tái diễn sau hai trận Cầu Giấy thắng lợi của ta: nhân dân hưởng ứng tham gia đánh Pháp nhưng triều đình lại bõ lỡ cơ hội, đã không dám hiẹu triệu quan quân thừa thắng xốc tới, lại ra lệnh cho Hoàng Tá Viêm lui binh, rút quân Lưu Vĩnh Phúc lên mạn ngược, tạo không khí thuận lợi để tiếp tục thương thuyết với Pháp. Kết quả là một Điều ước được ký kết ngày 15/3/1874 tại Sài Gòn, với những điều khoảng rất có hại cho ta. Triều đình Huế chính thức thừa nhận chủ quyền của Pháp ở cả sáu tỉnh Nam Kỳ, nền ngoại giao Việt Nam lệ thuộc Pháp. Phần đất còn lại bị Pháp chi phối cả nội trị và ngoại trị.
Với điều ước Giáp Tuất (15/3/1874), một lần nữa, triều đình Huế mở lối thoát cho Pháp, tạo điểu kiện thuận lợi cho Pháp mở rộng xâm lược nước ta.
Trận Cầu Giấy lần thứ hai lảm cho quân dân cả nước vô cùng phần khởi, sẵn sàng xông lên tiêu diệt địch, nên bất chấp lệnh của triều đình Huế, phong trào chống Pháp vẫn tiếp tục nổi lên. Nhiều quan lại ở địa phương trả ấn tín của triều đình, ở lại tập hợp nhân dân chống Pháp. Nghĩa quân các nơi quy tụ ngày càng đông dưới ngọn cờ chống Pháp của các quan lại chủ chiến.
Trong tình hình đó, triều đình Huế vẫn tiếp tục hãm mình trong thế bị động thương thuyết, hạ lệnh “triệt hết quân để tỏ lòng tín nghĩa” với quân Pháp và với hòa ước. Triều đình Huế cũng đã thực hiện đến “kế hoạch đối phó” bằng việc cầu cứu quân Thanh nhằm làm áp lực với Pháp chứ không phải để hợp lực với quân Thanh đánh Pháp. Kết quả là quân Thanh đã sang chốt giữ nhiều nơi ở Bắc Kỳ, như Cao Bằng, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Bắc NInh, Sơn Tây…nhưng không phải để cứu triều đình Huế mà để ngăn chặn Pháp xâm phạm vùng Tây – Nam Trung Quốc và để chia nhau quyền lợi với Pháp ở Bắc Kỳ.
Về phía Pháp, cũng trong tình hình đó, lợi dụng thời cơ thuận lợi, thực dân Pháp đẩy mạnh ý đồ xâm chiếm toàn bộ nước ta.
Một khoảng ngân sách lớn (5 triệu fơrăng) được thông qua, một đạo quân đông (4.000 tên) với nhiều tảu chiến được gửi sang Việt Nam, một kế hoạch tiến công mới được vạch ra, đã nêu rõ: Sau thất bại ở Hà Nội, nên bỏ cái cách dùng thương thuyết. Chừng nào chưa có tiếng sung đại bác thì chừng đó Tự Đức chưa ký hòa ước. Vậy nên trước tiên đánh Huế. Muốn đánh Huế thì phải lấy pháp đài Thuận An.
Thái độ, hành động đó của triều đình phong kiến nhà Nguyễn thể hiện rõ sự suy yếu, mất lòng dân, nhưng lại luôn ý thức đến quyền lợi giai cấp của mình, đặt quyền lợi giai cấp lên trên tất cả. Do suy yếu mà sợ Pháp, và do mất lòng dân mà sợ cả dân. Có điều là sợ Pháp thì Nhà nước Nguyễn bắt tay hòa hoãn Pháp đi đến đầu hàng Pháp, phản bội quyền lợi dân tộc, quyền lợi nhân dân. Còn sợ dân thì nhà nước Nguyễn chống lại dân, từ bỏ vai trò lãnh đạo, bỏ rơi, thậm chí ngăn cản, phá hoại phong trào đấu tranh chống Pháp của nhân dân.
Sự suy yếu, mất lòng dân của nhà nước Nguyễn có nguồn gốc từ sự ra đời và thể hiện trong suốt các triều vua đầu nhà Nguyễn.
Chính sách của triều đình nhà Nguyễn, đến thời Tự Đức, đã làm cho nước, cho dân “sức mòn, lực kiệt”, nội bộ chia rẽ sâu sắc, đặt dân tộc ta vào thế bất lợi trước cuộc xâm lược vũ trang của Pháp.
Tình thế nghiêm trọng thời Nguyễn có thể cứu vãn được nếu triều đình biết mở đường cho xã hội tiến lên, tăng cường lực lượng vật chất và tinh thần của nhân dân để có đủ khả năng bảo vệ độc lập dân tộc trước cuộc tấn công của thực dân Pháp. Muốn làm được như vậy, triều đình phải có sự điều chỉnh các mối xung đột giữa địa chủ và nông dân, giữa giai cấp phong kiến bảo thủ và tầng lớp tư sản chớm nở, phải tiến hành cải cách duy tân đất nước, phải biết chấn chỉnh quân đội, cố kết nhân tâm.
Nhưng triều đình Nguyễn đã không làm được như vậy ngoài việc luôn tự hãm mình trong thế bị động thương thuyết với Pháp để chuộc lại đất sau khi đã cắt nhượng cho Pháp, sau mỗi lần thua, cũng như thắng.
Nhiều đề nghị cải cách của những người tâm huyết bị số đông triều thần có đầu óc bảo thủ, có tầm nhìn hạn hẹp đã bóp chết ngay từ trên giấy. Một số đề nghị cải cách, Tự Đức có quan tâm và đã thực hiện, nhưng thực hiện một cách dè dặt, không triệt để,  thường nửa chừng bỏ dở.
Về quân sự, một mặt trận chủ yếu luôn phải đối đầu trực tiếp với Pháp, thì quân đội triều đình vẫn trang bị thô sơ cũ kỹ, vẫn giữ lối đánh phòng ngự, đánh cố thủ trong thành. Với trang bị và lối đánh đó không còn phù hợp trong một cuộc chiến tranh chống lại thực dân Pháp có trang bị hiện đại, dùng cả súng lớn có đường đạn không phải đi thẳng mà đi vòng. Với đường đạn đó, dù tường cao hào sâu cũng không thể che chắn nổi.
Trách nhiệm của triều đình nhà Nguyễn làm mất nước ta đã rõ ràng!



ß Khoa Lịch sử - Đại học sư phạm Hà Nội
[1] Đặng Huy Vận – Chương Thâu: Phan Thanh Giản trong lịch sử cận – hiện đại Việt Nam. Tạp chí NCLS, số 48 – 1963, tr. 17.
[2] Trần Văn Giàu: Chống xâm lăng – Nam kỳ kháng Pháp – Q1. NXB Xây dựng – H. 1956, tr. 77.
[3] Nguyễn Phan Quang – Lê Hữu Phước: Khởi nghĩa Trương Định – NXB TP. Hồ Chí Minh, tr. 90 và 98.
[4] Nguyễn Phan Quang – Lê Hữu Phước: Khởi nghĩa Trương Định – NXB TP. Hồ Chí Minh, tr. 90 và 98.
[5] Nguyễn Phan Quang – Lê Hữu Phước: Khởi nghĩa Trương Định – NXB TP. Hồ Chí Minh, tr. 90 và 98.

No comments:

Post a Comment