Nhà thơ nữ nửa đầu thế kỷ 19. Tiểu sử Hồ Xuân Hương chưa được biết đích
xác, đầy đủ. Có tài liệu cho rằng bà người làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ
An. Mẹ bà chỉ là một người vợ lẽ, cha mất sớm, bà sống với mẹ ở phường Khán
Sơn, gần Hồ Tây, Hà Nội, về sau sống ở thôn Tiên Thị (cũng ở Hà Nội). Sách Giai nhân di mặc tả lại rằng Hồ Xuân
Hương là một người tầm tước, mặt rỗ hoa, nước da ngâm đen.
Tương truyền bà có mở một hàng nước để thi tài với khách làng văn hầu
qua đó mà kén bạn trăm năm. Có một lần ông Tri phủ Vĩnh Tường, người đã từng đậu
Giải nguyên đi cùng với người em trai đến quán của bà. Hồ Xuân Hương ra đề
nhưng ông Tri phủ chỉ viết được mấy chữ rồi ngồi cắn bút, Hồ Xuân Hương chế nhạo:
“Nếu không làm được thơ, thì xin lui về nhà, chớ còn ngồi mãi đó cắn bút hay
sao?” Ông Phủ then ngã lăn ra bất tỉnh. Người em phải cứu chữa. Khi tỉnh dậy,
ông Phủ lại làm được thơ, được bà khen hay và bằng lòng kết duyên cùng ông
nhưng phải làm lẽ vì ông đã có vợ. Song cuộc tình duyên này chỉ được hơn hai
năm thì ông Phủ qua đời. Bà làm thơ khóc chồng.
… Hăm bảy tháng trời là mấy chốc?
Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ơi!
Vâng lời mẹ, bà lấy chồng lần thứ nhì là Tổng Cóc và vẫn lại làm bé:
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!
Năm thì mười họa nên chăng chớ,
Một tháng đôi lần, có cũng không…
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn, mướn không công.
Thân này ví biết dường này nhẻ,
Thà trước thôi đành ở vậy xong!
Sau đó bà lại góa chồng. An ủi cuộc đời, bà đi ngao du sơn thủy và làm
thơ, ngâm vình. Có lần đi viếng cảnh chùa ở ngoại trấn Thanh Hóa, gặp hai văn
nhân sính làm thơ, bà ra để tựa vịnh cái chuông
mà hạ vần uông ở câu thứ hai. Hai văn
nhân kia lúng túng ngọng nghịu không làm được, bà bèn đọc:
Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông,
Nó bảo nhau rằng: ấy cái uông.
Một trong những người bạn thường xướng họa với Hồ Xuân Hương là Phạm
Đình Hổ*. Có nhiều giai thoại về việc xướng họa giữa hai người mà điển hình là
lần Hồ Xuân Hương đê Chiêu Hổ chớ có trêu ghẹo mình:
Anh đồ tỉnh, anh đồ say?
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Này này chị bảo cho mà biết
Chốn này hang hùm chớ mó tay.
Thơ văn của Hồ Xuân Hương đặc biệt nêu lên những vấn đề của người phụ nữ
trong xã hội phong kiến với phong cách trào phúng, châm biếm, diễu cợt dân
gian:
Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm,
Một lạch đào nguyên nước chửa thông…
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt,
Đi thì cũng dở, ở không xong.
(Thiếu nữ ngủ ngày)
Tác phẩm của Hồ Xuân Hương vừa bằng chữ Hán vừa chữ Nôm nhu tập Lưu hương ký gồm 24 bài thơ chữ Hán và
26 bài thơ chữ Nôm (hiện có dư luận chưa công nhận đây là tác phẩm của Hồ Xuân
Hương), Xuân Hương thi tập, Đồ Sơn bát vịnh…
Y.T và Q.t.
No comments:
Post a Comment