Trong quan hệ với các nước láng giềng như Xiêm La, Vạn Tượng, vua Minh
Mệnh đã áp dụng một chính sách ngoại giao ôn hòa để giữ mối quan hệ tốt, Vào
năm 1827 chiến tranh giữa Xiêm La và Vạn Tượng nổ ra. Vạn Tượng cầu viện Việt Nam .
Vua Minh Mệnh đã giúp Vạn Tượng nhưng đồng thời cũng cố gắng tìm cách để giữ
quan hệ tốt đẹp với Xiêm La.
Đó là một chính sách ngoại giao trung lập, sang suốt trong lịch sử đối ngoại
của triều Nguyễn.
Từ lâu, chính sách ngoại giao của triều Nguyễn, đặc biệt là dưới thời
vua Minh Mệnh, thường được nhận định là “cứng rắn” nhằm “hòa phương Bắc, diệt
phương Nam” vv… Vì vậy, nhiều vấn đề về ngoại giao của triều Nguyễn cần được
làm sáng tỏ hơn, với nhiều cách tiếp cận khoa học hợn. Trong phạm vi bài viết
này, chúng tôi chỉ đề cập một khía cạnh nhỏ về ngoại giao với các nước láng
giềng, tiêu biểu là với Vạn Tượng và trong khoảng thời gian 1827 – 1828.
Việt Nam dưới triều
Minh Mệnh trở thành Đại Nam ,
khẳng định được tư thế của một quốc gia phong kiến độc lập, hùng mạnh. Tuy
nhiên, trong quan hệ với lân bang, Minh Mệnh vẫn coi trọng mối quan hệ hòa hiếu
với các nước trong khu vực và có định hướng ngoại giao rõ ràng.
Vạn Tượng là nước mà triều Nguyễn có quan hệ thân thiện và gần gũi. Mối
quan hệ này được đánh giá là “quan hệ giữa hai nước rất mật thiết nên trong
lịch sử mỗi khi vận mệnh mỗi nước hưng hay suy đều có ảnh hưởng nhất định đến
nước láng giềng của mình”[1].
Nhận thức lợi ích mà hai nước có được từ mối quan hệ hòa hiếu truyền thống đó,
Minh Mệnh đã có một chính sách ngoại giao hết sức ôn hòa với Vạn Tượng.
Từ cuối thế kỷ 18, Vạn Tượng “thần phục” Xiêm La, nhưng ngay khi Gia
Long lên ngôi, quốc vương Vạn Tượng là Chậu A Nụ đã sai sứ sang Việt Nam
triều cống và xin thần phuc. Quan hệ giữa triều Nguyễn với Vạn Tượng suốt cả
thời Gia Long trị vì không có xảy ra điều gì khó khăn. Cuộc chiến tranh Vạn
Tượng – Xiêm La nổ ra vào năm 1827 đã ít nhiều gây nên những biến động tới các
mối quan hệ quốc tế của Việt Nam
lúc đó.
Năm 1825 Quốc vương Vạn Tượng là Chậu A Nụ khi sang Xiêm La dâng lễ
tiến hương (vua Xiêm Rama II băng hà) đã chứng kiến những khó khăn, bối rối của
triều đình Băng Kốc trước sức ép của Anh, nên đã vạch ra một kế hoạch nhằm
thoát khỏi ảnh hưởng của Xiêm. Năm 1826, Anh tấn công Xiêm, thí đến 1826 “Vạn
Tượng cùng nước Xiêm động binh đánh nhau”[2].
Tháng 4/1827, Chậu A Nụ thất bại, quân Xiêm tiến vào Vạn Tượng. Chậu A Nụ cùng
gia quyến phải chạy sang Nghệ An cầu viện. Ngày 14 tháng 5 năm 1827, trấn thủ
Nghệ An là Nguyễn Khoa Hào khẩn tấu về triều. Sau khi nghe tấu trình, vua Minh
Mệnh giao cho đình thần suy xét, bàn nghị. Đình thần theo lệnh vua đã tham gia
triều nghị. Vấn đề đặt ra cho triều đình Huế là làm sao vừa phải giúp Vạn
Tượng, vừa phải giữ được quan hệ tốt đẹp với Xiêm La. Trong triều lúc này xuất
hiện xu hướng giải quyết:
- Xu hướng giúp Vạn Tượng và chống Xiêm La do tướng quân Lê Văn Duyệt
đề nghị. Ông cho rằng: “Giúp Vạn Tượng và chống Xiêm là hơn cả”. Giúp Vạn Tượng
bởi vì “nước Vạn Tượng giữ cống đã lâu. Làm phiên phụ cho ta, thế cũng phải kêu
oan, nghĩa là láng giềng không thể cự tuyệt”[3].
Xu hướng chống Xiêm giúp Vạn Tượng thực chất xuất phát từ yêu cầu phòng bị biên
giới. Nếu Vạn Tượng bị Xiêm thôn tính hẳn thì vùng biên giới của Việt Nam
cũng sẽ có biến động. ý của Lê Văn Duyệt là chống Xiêm để “phòng hậu họa”. vì
“Nếu Vạn Tượng bị Xiêm lấy đi thì Xiêm cùng ta bờ cõi giao tiếp, tôi nghe vậy
là có người ngủ ngáy ở bên cạnh, khó cho mình an giấc”[4]
- Xu hướng thứ hai cho rằng nên thận trọng trong việc giúp đỡ Vạn Tượng.
Cách giải quyết của Minh Mệnh là không đứng về phía nước này mà đoạn giao nước
kia. Giúp Vạn Tượng là “Nghĩa” với láng giềng, là thể hiện lòng “Nhân” với
người hoạn nạn. Theo Minh Mệnh, giải pháp hợp lý nhất và đúng đắn nhất là
thương lượng hòa hoãn với nước Xiêm: “Với Vạn Tượng là thuộc quốc của ta gặp
lúc nguy khốn chạy về với ta, triều đình không nỡ ngồi xem, vì họ mà ra quân là
nghĩa giúp người có nạn”[5].
Minh Mệnh đã cử Phan Văn Thúy, Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Khoa Hào thống lĩnh 3000
quân đưa Chậu A Nụ về nước. Triều Nguyễn cho đây là một việc làm quang minh
chính đại nên gửi thư khẳng định Vạn Tượng là “tôi cả hai nước” để làm yên lòng
Xiêm vương. Quân đội Việt Nam
đưa Chậu A Nụ về xong thì “phải hoàn
ngay”, không lưu lại. Riêng đối với Xiêm, nếu gặp quân Xiêm, Minh Mệnh dụ: “Lấy
nghĩa lớn thì bảo cho họ thôi. Nếu họ còn dám gây chuyện thì ta có cớ”[6].
Minh Mệnh giúp Vạn Tượng nhưng chủ trương đứng ngoài cuộc xung đột Vạn Tượng
với Xiêm Là và xác định rằng “Họ cùng nước Vạn Tượng đánh nhau không được vượt
sang bờ cõi thuộc Man của ta, nếu không nghe chỉ có đánh thôi”[7].
Hòa hoãn với Xiêm, đi theo đường lối ngoại giao ôn hòa nhưng vẫn tăng
cường phòng bị vùng biên giới, nếu Xiêm La có xâm phạm bờ cõi thì triều đình
Huế chủ trương “giặc đến ta kháng cự, giặc đi ta không cần đuổi theo”[8].
Theo đó, việc chống xâm lăng chỉ để tự vệ, để bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc
gia, chứ không hề gây chiến tranh.
Châu A Nụ sau khi được Minh Mệnh giúp và đưa về nước đã tiếp tục cuộc
kháng chiến chống Xiêm. Xung đột Vạn Tượng – Xiêm La lại tiếp diễn, Minh Mệnh
tuy thừa nhận nguyên do xung đột là “bởi tướng Xiêm sinh sự trước”[9],
nhưng ông muốn “đối xử với nước nhỏ, mà giải quyết hòa mục làng giềng, phải làm
sao cho hai mât đều được tốt cả”…Vì vậy, Minh Mệnh yêu cầu Chậu A Nụ tạ lỗi để
giảng hòa. “Chỉ có giảng hòa, chịu nhún nhường mới có thể dung hòa mâu thuẫn
Vạn Tượng – Xiêm La.
Về quan hệ với hai lực lượng bên ngoài nước Vạn Tượng là Việt Nam và Xiêm La,
Minh Mệnh đề xuất phương hướng mang tính thỏa hiệp là Vạn Tượng “thần phục’ cả
hai nước này. Trong những xung đột giữa các nước láng giềng, cách xử trí của
Minh Mệnh là tạm thời hòa hoãn, “không muốn gây việc binh đao, cứ dùng lời nói
ngọt mà trang trải mọi việc”[10].
Đưa quân hộ tống Chậu A Nụ về nước, Minh Mệnh gửi thư cho Xiêm khuyên
họ bỏ hiềm khích cũ với Vạn Tượng. “Ngài liền sai Đô thống chế là Phan Văn Thúy
dẫn đại binh tiễn tống A Nụ tới địa đầu Vạn Tượng. Ngài lại sai người quân Xiêm
nói cho quốc vương nước này hiểu cái đại nghĩa bù trì kẻ nhỏ yếu thương xót
người hoạn nạn của triều đình Việt Nam”[11].
Đã có nhiều ý kiến trong giới nghiên cứu cho rằng: Minh Mệnh “né tránh
một cuộc đụng đầu với Xiêm La”, Minh Mệnh “trước giúp sau bỏ”…Thực tế đã chứng
minh, triều đình Huế không đứng về phía nào cả trong cuộc xung đột Vạn Tượng –
Xiêm La. Đây là một thái độ, một cách xử trí khôn khéo trong tình hình bấy giờ.
Minh Mệnh tỏ ra dè dặt và thận trọng trong quan hệ ngoại giao. Bởi lẽ
ông muốn duy trì tình thế hòa bình trong khu vực, nhưng ông không ảo tưởng về
tính bền vững của sự hòa hoãn mà chủ quan. Tuy giữ thế trung lập, song Minh
Mệnh tích cực chuẩn bị chống trả một cách có hiệu quả trước mọi hành động gây
hấn, nếu có, từ bên ngoài. Ông bình tĩnh, kiềm chế và không tự mình gây chuyện
trước. Qua đó, chúng ta thấy triều đình Huế có ý thức trong việc bảo vệ, giữ
gìn toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia. Vùng biên giới luôn được chú trọng, giữ
vững quan hệ hòa hiếu với các nước láng giềng, cho nên mong muốn Vạn Tượng có
cùng biên giới được sống trong bình ổn.
Vạn tượng là nước nhỏ, luôn quy thuận triều Nguyễn, nhưng không vì thế
mà Minh Mệnh lấn ép, kể cả đối với Vạn Tượng. Đối với Xiêm La, triều Nguyễn vẫn
có quan hệ từ thời Nguyễn Ánh, nên đến triều Minh Mệnh, mối quan hệ Việt – Xiêm
vẫn được tiếp nối tốt đẹp. Tất nhiên Minh Mệnh không muốn phá vỡ mối quan hệ đó
để thay thế bằng chiến tranh, hận thù. Ông muốn có một môi trường quốc tế hòa
bình để đối phó với những vấn đề trong nước và củng cố quyền lực của minh.
Trong mấy chục năm cai trị đất nước, Minh Mệnh có những thiếu sót, hạn
chế và sai lầm trong nội trị, ngoại trị. Nhưng trong các sự kiện liên quan đến
các nước Vạn Tượng và Xiêm La vào những năm 1827 – 1828, thì như Minh Mệnh tự
nhận: nếu bang giao với các nước này thì có gì trắc trở “Đối với bản triều thì
có gì đáng trách đâu”[12].
ß
Khoa Lịch sử, trường ĐHSP – ĐH Huế
[1] Việt Nam Đông Nam Á, Quan hệ lịch sử - văn
hóa, NXB Chính Trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 67.
[2] Đại Nam thực lục chính biên, NXB Sử học,
Hà Nội, 1963, T8, tr. 203
[3] Đại Nam thực lục chính biên, NXB Sử học,
Hà Nội, 1963, T8, tr. 247.
[4] Phạm
Trung Việt, Khuôn mặt Quảng Ngãi, NXB
Nam Quảng, 1973, tr. 54
[5] Đại Nam thực lục chính biên, NXB Sử
học, Hà Nội, 1963, T8, tr. 274.
[6] Đại Nam thực lục chính biên, NXB Sử học,
Hà Nội, 1963, tr. 47.
[7] Đại Nam thực lục chính biên, NXB Sử học,
Hà Nội, 1963, T8, tr. 247.
[8] Quốc sử
quán triều Nguyễn, Minh Mệnh chính yếu,
T3, NXB Thuận Hóa, Huế, 1994, tr. 380.
[9] Đại Nam thực lục chính biên, NXB Sử học,
Hà Nội, 1963, T9, tr. 76.
[10] Trần
Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Q1, T2. Trung tâm
học liệu, Bộ Giáo dục, Sài Gòn, 1971, tr. 219
[11] Quốc sử
quán triều Nguyễn, Minh Mệnh chính yếu,
T3, NXB Thuận Hóa, Huế, 1994, tr. 377.
[12] Quốc sử
quán triều Nguyễn, Minh Mệnh chính yếu,
T3, NXB Thuận Hóa, Huế, 1994, tr. 402.
No comments:
Post a Comment