Nếu như chắp nối những mảng hiện thực nằm rải rác trong các
di thảo của Nguyễn Trường Tộ, ta thấy sẽ có một bức tranh chung về
tình hình đất nước Việt Nam dưới thời Tự Đức. Bức tranh ấy phản
ánh mọi mặt tình hình nội trị cũng như ngoại trị, phản ánh khá
đúng dắn mâu thuẫn giai cấp và dân tộc, cuộc đắu tranh giai cấp và
dân tộc (nói theo thuật ngữ hiện đại), những thảm họa và thử thách
mà nhân dân ta phải chịu đựng, phải đương đầu. Đó là một thời đại
rối loạn, họa binh đao diễn ra liên mien cả Nam lẫn Bắc, đất nước bị
giặc chiếm làm hang ổ, cướp biển hoành thành, thiên tai “cảnh cáo”
liên tiếp, quyền lực quốc gia ngày càng giảm sút, ngân khố không còn
đủ cung ứng cho quân mã, tiền của và sức lực nhân dân kiệt quệ vì
thường xuyên “bị thôi thúc cung đốn các khoản”, đường buôn bán không
thong, xóm làng điêu tàn, nhân dân xiêu tán hoặc biến thành những kẻ
du thủ du thực, những kẻ vô lại quấy phá trật tự an ninh, hoặc bất
bình nổi dậy như “Thắng Quảng” ở Trung Hoa. Trong “Kế hoạch vay tiền
dùng vào việc binh” (4/1871), Nguyễn Trường Tộ viết: “Nước ta gần đây
phải đánh Nam
dẹp Bắc, của cải tích lũy đã cạn. Dân gian bị lụt lội, hạn hoán,
sâu rầy, làng xóm hư hao. Bên ngoài cướp biển hoành hành, đường buôn
bán không thong. Bên trong, sự cung đốn cho nhà nước ngày một gia tăng,
lòng dân rời rạc. Tất cả đều do nghèo thiếu của cải gay nên. Tôn tử
nói: sức kém, tiền thiếu, người ta sẽ thừa cái tệ ấy mà nổi dậy”.
Đó là thời kỳ đường hiền tài bế tác, trí học không mở mang,
tâm lực không đồng, gian dối trở thành tập quán, các tệ đoạn chồng
chất.
Nổi bật trên bối cảnh đất nước ở thế “suy” và vận “mạt” làm
nền ấy là thực trạng đau buồn về hệ thống quan lại từ trên xuống
dưới, từ “thánh thượng” và đám cận thần của ông ta ở trên cho đến
các quan viên ngoài nội từ cấp tỉnh đếncấp huyện đến bọn cường hào
lý dịch ở các xã, các làng như là tấm gương phản chiếu sự bế tắc
khủng hoảng của đất nước, đồng thời là thủ phạm chính của tình
hình rối loạn ấy.
Trước cảnh họa bị xâm lược, đất nước bị giặc chiếm làm “sào
huyệt” vua quan triều Tự Đức không thi thố được kế sách nào khả dĩ
động đến “lông “ của chúng, tệ hại
hơn là còn nối giáo cho giặc “đàn áp những cuộc khởi nghĩ của dân
chúng”.
Trong di thảo “Bàn về những
tình thế lớn trong thiên hạ” (4/1868), Nguyễn Trường Tộ đã tỏ ra phẫn
nộ khi ông viết: “Hiện nay tình hình trong nước rối loạn…Thế mà đối
ngoại thì không có cách nào để động đến mảy may lông của quân Pháp,
cũng chẳng thuyết phục được ai để giải vây cho, lại đi tàn sát dân
mình, giận cá chém thốt khiến cho dân bị hai cái hại “cháy nhà vạ
lây”.
Thật đúng như câu nói “đào ao nuôi cá”, “nối giáo cho giặc”.
Cây thối trước hết nó tự hủ mục sau mới bị sâu đục, nước mình
trước hết không biết giữ thể diện thí người ta mới khinh mình, dân
loạn trong rồi kẻ địch mới nhân đó mà vào. Như thế loạn không chỉ
từ bên ngoài mà ngay ở trong nước vậy.
Than ôi! Dân chúng phụng sự quan trên, đóng thuế nạp tô để mạng
sống được yên thân, thế mà bây giờ lại lấy những thứ nuôi sống người
đó để làm hại người, nỡ khiến dân chúng vấp phải họa binh đao, nỡ
tranh giành cái nhỏ mà bỏ cái lớn, cũng như muốn bảo tổn cành lá
mà lại đem đẫn cả cội gốc. Cho nên mới nói: không sợ giặc ngang tàng
mà sợ lòng người rời rạc, đã muốn chóng mất, thì dù có thành trì
bằng kim loại, có ao nước sôi cũng phải bỏ mà chạy, ai ở đó mà
chịu chết cho”[1].
Qua di thảo của Nguyễn Trường Tộ, quan chế thời Tự Đức là
một hệ thống quan liêu nặng nề đến mức “10 con dê 9 người chăn” “1 con
ngựa 9 người giữ”. Hệ thống ấy vừa làm cho triều đình tốn nhiều
lương bổng vừa tạo ra tình trạng quan dân cách xa muôn dăm, khiến cho
trên dưới không thong, lòng dạ khác nhau. Quan viên phần lớn là bất
tài, quan võ như đề đốc, lãnh binh có người không đọc được binh thư,
chỉ viết hai chữ “tuân phụng”, làm việc gì cũng đặt cái “vị tư vị
kỷ” lên trước, “không thật làm việc gì công ích”, xu nịnh tang bốc,
dối trên là “chính lệnh ôn hòa”, chèn ép những kẻ cô thế, khích bác
những người trung thực thanh liêm, che đậy cho những kẻ xảo quyệt điêu
ngoa để thủ lợi. Quan tòa thì lợi dụng dân trí thấp kém, chữ nghĩa
rắc rối, thủ thục đơn từ kiện tụng rườm rà để bóp tròn bóp méo
sự thật và công lý. Con đường thăng quan tiến chức là con đường sống
lâu lên lão làng, con đường đút lót, con đường “tập ấm” gặp may chứ
không phải do thực tài, do đó dân “kính sợ” quan là kính sợ quyền
chức chứ không phải do nhân phẩm của quan.
Quần thấn trong triều đình chỉ là một “đám gia nhân” chỉ biết
làm trò hề cho vui lòng vua, che đậy những việc hư hỏng trong nước,
ngăn chặn những bậc hiền tài, chia bè lập đảng khuynh loát lẫn nhau. Ngoài
nội, ở các tỉnh thì quan lại tham nhũng, xưng hùng xưng bá, tác phúc
tác oai, bòn rút mỡ dân, đục khoét tủy nước; quan phủ, quan huyện
chỉ lo đàn ca xướng vịnh, đi công cán thì tiền hô hậu ủng, bắt dân
chầu chực nghinh đón; ở các làng các xã thì bọn lý dịch hương hào
bao chiếm đất công, biến ruộng công thành đất riêng làng mình dùng
vào cúng tế, hát xướng, nhân danh sửa đình, sửa miếu để bớt xén
đến phân nửa, dựa vào “tài dắp vá quỷ quyệt” để trốn thuế, lậu
thuế, man khai số đinh để thu của dân thì nhiều nộp thuế lên quan thì
ít.
Theo Nguyễn Trường tộ những tệ đoan trên đã trở thành “tập
quán kên cố sâu dày khó một sớm một chiều mà thay đổi được”; và
một trong những nguyên nhân đẻ ra sự bất lực, hôn mê và những tệ
chồng chất trên là do học thuật của nước nhà mà dinh lũy của nó
học thuyết Tống Nho đã lỗi thời. Đó là lối học thủ cựu, nệ cổ tự
mãn tự túc, cho thiên hạ không ai hơn mình.
“Người thời nay phần nhiều không hiệu được sự thế xưa nay dời
đổi ra sao, cứ ca tụng thời xưa, cho rằng thời sau không thể nào bằng
được. Làm việc gì họ cũng đều muốn đi ngược lại theo xưa. Bọn Tống
Nho sở dĩ làm hại đất nước, làm đất nước hèn yếu không phát đạt
đều do tư tưởng này mà ra cả” (Tế cấp bát điều – 11/1867”)[2].
Đó là lối học giáo điều, không “suy nghĩ bằng bản thân ta”,
chỉ nhai đi nhai lại “những nghĩa lý cặn bã”, lấy binh hình, luật
lệ, sử ký, địa lý, văn chương Trung Hoa làm khuôn vàng thước ngọc:
“Ngày nay chúng ta lúc nhỏ thì học văn từ, thơ phú, lớn lên
thì làm lại luật, lịch, binh hình. Lúc nhỏ học nào Sơn Đông, Sơn Tây,
mắc chưa từng thấy, lớn lên ra làm quan thì Nam Kỳ, Bắc Kỳ. Lúc nhỏ
thì học thiên văn, địa lý, chính trọ, phong tục bên Tàu (mà nay họ
đã sửa đổi khác rồi), lớn lên thì lại dùng đến địa lý, thiên văn
chính trị, phong tục của nước Nam hoàn toàn khác hẳn…Còn bao nhiêu
việc tương tự như thế, mòn bút khô môi cũng không kể xiết”[3]
Học thuật cũ còn là lối học phù phiếm, học để được thanh
nhàn, cốt để thạo khai, thừa, chuyển hợp, rành các thanh bình,
thượng, khứ, nhập mà hậu quả là “khi sa cơ lỡ vận cầu ấm no cho một
thân mình còn chưa được, nói chuyện làm cho dân no ấm”.
Cái học thuật có đường lối sáng suốt, “quái gỡ” ấy chỉ có
thể sản sinh ra một tầng lớp mà ông gọi là “hủ nho” và biết bao tệ
đoan khác. Những tệ đoan nói trên chỉ là những tệ đoan thông thường,
cạn cợt, dễ thấy mà thôi và trách nhiệm của tình trạng học thuật
lỗi thời ấy một phần là do sách vỡ, một phần là do triều đình.
Những tệ đoan trên đục ruỗng hệ thống quan lại, theo Nguyễn
Trường Tộ là có thực, hoàn toàn không phải vu cáo và để kiểm chứng
cho những lời nói của mình, ông đã đề nghị cử những người trung thực
ra Bắc Kỳ và vào Gia Định giả làm dân thường để thẩm tra.
Với tinh thần “phàm kẻ có trí trong thiên hạ là người không
phải không có lầm lạc ban đầu mà chỉ là người biết thay đổi hành
động, không phải không có sự sai lạc nhưng biết sửa điều sai thành
điều đúng đắn, không xấu hổ vì phải sửa đổi cái cũ mà xấu hổ vì
không làm được điều gí mới, không nhìn lui dĩ vãng mà chuyên mưu việc
tương lai, không nghĩ gì đến bảo toàn tên tuổi của riêng mình, mà lo
lợi ích chung cho đất nước (Tế cấp bát điều)[4],
Nguyễn Trường Tộ đã kiến nghị một hệ thống biện pháp cải cách khá
toàn diện và cụ thể.
Từ hiện thực xã hội được
phản ánh qua các di thảo của Nguyễn Trường Tộ có thể rút ra được
kết luận:
Ngoài những phẩm chất như không “màng công danh”, không “hám tài
sắc’, dám xả thân gánh vác những trọng trách, những việc hiểm nguy,
“vô vị lợi đến mức tuyệt đối”, Nguyễn Trường Tộ còn là một người
thẳng thắng, cương trực. Trong điều kiện của một chế độ chuyên chế,
nhà vua có quyền sinh quyền sát, mỗi lời nói mỗi hành động dễ bị
khép tội “khi quân”, phẩm chất cương trực, thẳng thắn, dám nói lên sự
thực mà không sợ thị phi, liên lụy của Nguyễn Trường Tộ xứng đáng
được người đời tôn vinh. Những phẩm chất nói trên đều xuất phát từ
tấm lòng của một con người yêu nước thương nòi thiết tha, đau xót
trước thảm cảnh đất nước bị chia cắt, bị giao long chiếm làm đầm
vực, nhức nhối cảnh trăm họ lìa tan, căm thù giặc đến mức không thể
chung sống, tìm kế đánh giặc không một phút nghỉ ngơi như Khổng Minh
ngày đêm tìm cách đánh Ngụy, canh cánh một hoài bão làm cho dân giàu
nước mạnh để rong ruổi cùng thiên hạ năm châu.
Để đất nước rối loạn, lòng dân rời rạc, quan dân cách xa muôn
dặm, ngân khố trống rỗng không đủ sưc cung đốn cho quân mã, quan lại
bòn rút mỡ dân, đục khoét tủy nước; để đất nước bị giao ling chiếm
làm đầm vực mà không thi thố được một kế sách gì lại còn giận cá
chém thớt, trách nhiệm này thuộc về ai? Không cần vạch mặt chỉ tên,
chắc ai cũng rõ!
Những mảng hiện thực trong các di thảo của Nguyễn Trường Tộ
mà chúng tô dẫn ra mới chỉ khái quát một phàn có lẽ là những tài
liệu trung thực, khách quan và có sức thuyết phục hơn cả, khi giáo
viên muốn làm rõ thực trạng đất nước ta trước thách thức sống còn
là sự xâm lược của thực dân Pháp.
ß
Đại học Vinh
[1] Nguyễn
Trường Tộ, dẫn theo: Nguyễn Trường Tộ con người và di thảo, Trương Bá
cần, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1988.
[2] Nguyễn
Trường Tộ, dẫn theo: Nguyễn Trường Tộ con người và di thảo, Trương Bá
cần, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1988
[3] Nguyễn
Trường Tộ, dẫn theo: Nguyễn Trường Tộ con người và di thảo, Trương Bá
cần, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1988
[4] Nguyễn
Trường Tộ, dẫn theo: Nguyễn Trường Tộ con người và di thảo, Trương Bá
cần, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1988