Wednesday, June 29, 2016

HIỆN THỰC XÃ HỘI VIỆT NAM THỜI TỰ ĐỨC QUA CÁC DI THẢO CỦA NGUYỄN TRƯỜNG TỘ



PGS. Phan Văn Banß

Nếu như chắp nối những mảng hiện thực nằm rải rác trong các di thảo của Nguyễn Trường Tộ, ta thấy sẽ có một bức tranh chung về tình hình đất nước Việt Nam dưới thời Tự Đức. Bức tranh ấy phản ánh mọi mặt tình hình nội trị cũng như ngoại trị, phản ánh khá đúng dắn mâu thuẫn giai cấp và dân tộc, cuộc đắu tranh giai cấp và dân tộc (nói theo thuật ngữ hiện đại), những thảm họa và thử thách mà nhân dân ta phải chịu đựng, phải đương đầu. Đó là một thời đại rối loạn, họa binh đao diễn ra liên mien cả Nam lẫn Bắc, đất nước bị giặc chiếm làm hang ổ, cướp biển hoành thành, thiên tai “cảnh cáo” liên tiếp, quyền lực quốc gia ngày càng giảm sút, ngân khố không còn đủ cung ứng cho quân mã, tiền của và sức lực nhân dân kiệt quệ vì thường xuyên “bị thôi thúc cung đốn các khoản”, đường buôn bán không thong, xóm làng điêu tàn, nhân dân xiêu tán hoặc biến thành những kẻ du thủ du thực, những kẻ vô lại quấy phá trật tự an ninh, hoặc bất bình nổi dậy như “Thắng Quảng” ở Trung Hoa. Trong “Kế hoạch vay tiền dùng vào việc binh” (4/1871), Nguyễn Trường Tộ viết: “Nước ta gần đây phải đánh Nam dẹp Bắc, của cải tích lũy đã cạn. Dân gian bị lụt lội, hạn hoán, sâu rầy, làng xóm hư hao. Bên ngoài cướp biển hoành hành, đường buôn bán không thong. Bên trong, sự cung đốn cho nhà nước ngày một gia tăng, lòng dân rời rạc. Tất cả đều do nghèo thiếu của cải gay nên. Tôn tử nói: sức kém, tiền thiếu, người ta sẽ thừa cái tệ ấy mà nổi dậy”.
Đó là thời kỳ đường hiền tài bế tác, trí học không mở mang, tâm lực không đồng, gian dối trở thành tập quán, các tệ đoạn chồng chất.
Nổi bật trên bối cảnh đất nước ở thế “suy” và vận “mạt” làm nền ấy là thực trạng đau buồn về hệ thống quan lại từ trên xuống dưới, từ “thánh thượng” và đám cận thần của ông ta ở trên cho đến các quan viên ngoài nội từ cấp tỉnh đếncấp huyện đến bọn cường hào lý dịch ở các xã, các làng như là tấm gương phản chiếu sự bế tắc khủng hoảng của đất nước, đồng thời là thủ phạm chính của tình hình rối loạn ấy.
Trước cảnh họa bị xâm lược, đất nước bị giặc chiếm làm “sào huyệt” vua quan triều Tự Đức không thi thố được kế sách nào khả dĩ động đến  “lông “ của chúng, tệ hại hơn là còn nối giáo cho giặc “đàn áp những cuộc khởi nghĩ của dân chúng”.
Trong di  thảo “Bàn về những tình thế lớn trong thiên hạ” (4/1868), Nguyễn Trường Tộ đã tỏ ra phẫn nộ khi ông viết: “Hiện nay tình hình trong nước rối loạn…Thế mà đối ngoại thì không có cách nào để động đến mảy may lông của quân Pháp, cũng chẳng thuyết phục được ai để giải vây cho, lại đi tàn sát dân mình, giận cá chém thốt khiến cho dân bị hai cái hại “cháy nhà vạ lây”.
Thật đúng như câu nói “đào ao nuôi cá”, “nối giáo cho giặc”. Cây thối trước hết nó tự hủ mục sau mới bị sâu đục, nước mình trước hết không biết giữ thể diện thí người ta mới khinh mình, dân loạn trong rồi kẻ địch mới nhân đó mà vào. Như thế loạn không chỉ từ bên ngoài mà ngay ở trong nước vậy.
Than ôi! Dân chúng phụng sự quan trên, đóng thuế nạp tô để mạng sống được yên thân, thế mà bây giờ lại lấy những thứ nuôi sống người đó để làm hại người, nỡ khiến dân chúng vấp phải họa binh đao, nỡ tranh giành cái nhỏ mà bỏ cái lớn, cũng như muốn bảo tổn cành lá mà lại đem đẫn cả cội gốc. Cho nên mới nói: không sợ giặc ngang tàng mà sợ lòng người rời rạc, đã muốn chóng mất, thì dù có thành trì bằng kim loại, có ao nước sôi cũng phải bỏ mà chạy, ai ở đó mà chịu chết cho”[1].
Qua di thảo của Nguyễn Trường Tộ, quan chế thời Tự Đức là một hệ thống quan liêu nặng nề đến mức “10 con dê 9 người chăn” “1 con ngựa 9 người giữ”. Hệ thống ấy vừa làm cho triều đình tốn nhiều lương bổng vừa tạo ra tình trạng quan dân cách xa muôn dăm, khiến cho trên dưới không thong, lòng dạ khác nhau. Quan viên phần lớn là bất tài, quan võ như đề đốc, lãnh binh có người không đọc được binh thư, chỉ viết hai chữ “tuân phụng”, làm việc gì cũng đặt cái “vị tư vị kỷ” lên trước, “không thật làm việc gì công ích”, xu nịnh tang bốc, dối trên là “chính lệnh ôn hòa”, chèn ép những kẻ cô thế, khích bác những người trung thực thanh liêm, che đậy cho những kẻ xảo quyệt điêu ngoa để thủ lợi. Quan tòa thì lợi dụng dân trí thấp kém, chữ nghĩa rắc rối, thủ thục đơn từ kiện tụng rườm rà để bóp tròn bóp méo sự thật và công lý. Con đường thăng quan tiến chức là con đường sống lâu lên lão làng, con đường đút lót, con đường “tập ấm” gặp may chứ không phải do thực tài, do đó dân “kính sợ” quan là kính sợ quyền chức chứ không phải do nhân phẩm của quan.
Quần thấn trong triều đình chỉ là một “đám gia nhân” chỉ biết làm trò hề cho vui lòng vua, che đậy những việc hư hỏng trong nước, ngăn chặn những bậc hiền tài, chia bè lập đảng khuynh loát lẫn nhau. Ngoài nội, ở các tỉnh thì quan lại tham nhũng, xưng hùng xưng bá, tác phúc tác oai, bòn rút mỡ dân, đục khoét tủy nước; quan phủ, quan huyện chỉ lo đàn ca xướng vịnh, đi công cán thì tiền hô hậu ủng, bắt dân chầu chực nghinh đón; ở các làng các xã thì bọn lý dịch hương hào bao chiếm đất công, biến ruộng công thành đất riêng làng mình dùng vào cúng tế, hát xướng, nhân danh sửa đình, sửa miếu để bớt xén đến phân nửa, dựa vào “tài dắp vá quỷ quyệt” để trốn thuế, lậu thuế, man khai số đinh để thu của dân thì nhiều nộp thuế lên quan thì ít.
Theo Nguyễn Trường tộ những tệ đoan trên đã trở thành “tập quán kên cố sâu dày khó một sớm một chiều mà thay đổi được”; và một trong những nguyên nhân đẻ ra sự bất lực, hôn mê và những tệ chồng chất trên là do học thuật của nước nhà mà dinh lũy của nó học thuyết Tống Nho đã lỗi thời. Đó là lối học thủ cựu, nệ cổ tự mãn tự túc, cho thiên hạ không ai hơn mình.
“Người thời nay phần nhiều không hiệu được sự thế xưa nay dời đổi ra sao, cứ ca tụng thời xưa, cho rằng thời sau không thể nào bằng được. Làm việc gì họ cũng đều muốn đi ngược lại theo xưa. Bọn Tống Nho sở dĩ làm hại đất nước, làm đất nước hèn yếu không phát đạt đều do tư tưởng này mà ra cả” (Tế cấp bát điều – 11/1867”)[2].
Đó là lối học giáo điều, không “suy nghĩ bằng bản thân ta”, chỉ nhai đi nhai lại “những nghĩa lý cặn bã”, lấy binh hình, luật lệ, sử ký, địa lý, văn chương Trung Hoa làm khuôn vàng thước ngọc:
“Ngày nay chúng ta lúc nhỏ thì học văn từ, thơ phú, lớn lên thì làm lại luật, lịch, binh hình. Lúc nhỏ học nào Sơn Đông, Sơn Tây, mắc chưa từng thấy, lớn lên ra làm quan thì Nam Kỳ, Bắc Kỳ. Lúc nhỏ thì học thiên văn, địa lý, chính trọ, phong tục bên Tàu (mà nay họ đã sửa đổi khác rồi), lớn lên thì lại dùng đến địa lý, thiên văn chính trị, phong tục của nước Nam hoàn toàn khác hẳn…Còn bao nhiêu việc tương tự như thế, mòn bút khô môi cũng không kể xiết”[3]
Học thuật cũ còn là lối học phù phiếm, học để được thanh nhàn, cốt để thạo khai, thừa, chuyển hợp, rành các thanh bình, thượng, khứ, nhập mà hậu quả là “khi sa cơ lỡ vận cầu ấm no cho một thân mình còn chưa được, nói chuyện làm cho dân no ấm”.
Cái học thuật có đường lối sáng suốt, “quái gỡ” ấy chỉ có thể sản sinh ra một tầng lớp mà ông gọi là “hủ nho” và biết bao tệ đoan khác. Những tệ đoan nói trên chỉ là những tệ đoan thông thường, cạn cợt, dễ thấy mà thôi và trách nhiệm của tình trạng học thuật lỗi thời ấy một phần là do sách vỡ, một phần là do triều đình.
Những tệ đoan trên đục ruỗng hệ thống quan lại, theo Nguyễn Trường Tộ là có thực, hoàn toàn không phải vu cáo và để kiểm chứng cho những lời nói của mình, ông đã đề nghị cử những người trung thực ra Bắc Kỳ và vào Gia Định giả làm dân thường để thẩm tra.
Với tinh thần “phàm kẻ có trí trong thiên hạ là người không phải không có lầm lạc ban đầu mà chỉ là người biết thay đổi hành động, không phải không có sự sai lạc nhưng biết sửa điều sai thành điều đúng đắn, không xấu hổ vì phải sửa đổi cái cũ mà xấu hổ vì không làm được điều gí mới, không nhìn lui dĩ vãng mà chuyên mưu việc tương lai, không nghĩ gì đến bảo toàn tên tuổi của riêng mình, mà lo lợi ích chung cho đất nước (Tế cấp bát điều)[4], Nguyễn Trường Tộ đã kiến nghị một hệ thống biện pháp cải cách khá toàn diện và cụ thể.
Từ hiện thực xã hội được phản ánh qua các di thảo của Nguyễn Trường Tộ có thể rút ra được kết luận:
Ngoài những phẩm chất như không “màng công danh”, không “hám tài sắc’, dám xả thân gánh vác những trọng trách, những việc hiểm nguy, “vô vị lợi đến mức tuyệt đối”, Nguyễn Trường Tộ còn là một người thẳng thắng, cương trực. Trong điều kiện của một chế độ chuyên chế, nhà vua có quyền sinh quyền sát, mỗi lời nói mỗi hành động dễ bị khép tội “khi quân”, phẩm chất cương trực, thẳng thắn, dám nói lên sự thực mà không sợ thị phi, liên lụy của Nguyễn Trường Tộ xứng đáng được người đời tôn vinh. Những phẩm chất nói trên đều xuất phát từ tấm lòng của một con người yêu nước thương nòi thiết tha, đau xót trước thảm cảnh đất nước bị chia cắt, bị giao long chiếm làm đầm vực, nhức nhối cảnh trăm họ lìa tan, căm thù giặc đến mức không thể chung sống, tìm kế đánh giặc không một phút nghỉ ngơi như Khổng Minh ngày đêm tìm cách đánh Ngụy, canh cánh một hoài bão làm cho dân giàu nước mạnh để rong ruổi cùng thiên hạ năm châu.
Để đất nước rối loạn, lòng dân rời rạc, quan dân cách xa muôn dặm, ngân khố trống rỗng không đủ sưc cung đốn cho quân mã, quan lại bòn rút mỡ dân, đục khoét tủy nước; để đất nước bị giao ling chiếm làm đầm vực mà không thi thố được một kế sách gì lại còn giận cá chém thớt, trách nhiệm này thuộc về ai? Không cần vạch mặt chỉ tên, chắc ai cũng rõ!
Những mảng hiện thực trong các di thảo của Nguyễn Trường Tộ mà chúng tô dẫn ra mới chỉ khái quát một phàn có lẽ là những tài liệu trung thực, khách quan và có sức thuyết phục hơn cả, khi giáo viên muốn làm rõ thực trạng đất nước ta trước thách thức sống còn là sự xâm lược của thực dân Pháp.



ß Đại học Vinh
[1] Nguyễn Trường Tộ, dẫn theo: Nguyễn Trường Tộ con người và di thảo, Trương Bá cần, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1988.
[2] Nguyễn Trường Tộ, dẫn theo: Nguyễn Trường Tộ con người và di thảo, Trương Bá cần, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1988
[3] Nguyễn Trường Tộ, dẫn theo: Nguyễn Trường Tộ con người và di thảo, Trương Bá cần, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1988
[4] Nguyễn Trường Tộ, dẫn theo: Nguyễn Trường Tộ con người và di thảo, Trương Bá cần, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1988

KIỀU OÁNH MẬU (1854 – 19120


Tên thật là Kiều Dực sau đổi lại là Kiều Cung, tự Tự Yến, hiệu Giá Sơn, người xã Đông Sàng, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây (Hà Sơn Bình). Sinh ra trong một gia đình nhà nho có truyền thống khoa cử, cha là Kiều Thăng đỗ cử nhân, Kiều Oánh Mậu đỗ cử nhân năm Kỷ Mão (1879) năm sau đỗ Phó bảng (1880), được bổ làm Tri phủ, sau không biết vì lý do nào ông bị giáng xuống Tri huyện. Sau đó bỏ ấn từ quan, chuyển sang làm báo “Đồng Văn”, chuyên biết và biên soạn, xuất bản sách. Những tác phẩm đáng chú ý của ông là Bản triều bạn nghịch liệt truyện được viết vào năm Tân Sửu Thành Thái thứ 13 (1901). Đây là tác phẩm ghi lại hầu hết những cuộc nổi dậy chống lại triều đình nhà Nguyễn từ khi Nguyễn Ánh lấy được Phú Xuân và đặt niên hiệu Gia Long (1802) cho đến khi Kiều Oánh Mậu soạn cuốn sách này (1901), nghĩa là đúng 100 năm. Năm 1902 Kiều Oánh Mậu cho xuất bản ở Hà Nội cuốn Đoạn trường tân thanh do ông bổ sung, đính chính và chú thích một cách tỉ mỉ. Ngoài ra, Kiều Oánh Mậu còn viết đề tựa cho cuốn Thang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án, duyệt lại các sách Bút toán chỉ nam
Kiều Oánh Mậu mất năm 1912.

V.H.L.

QUAN HỆ GIỮA THỰC DÂN PHÁP VÀ TRIỀU ĐÌNH HUẾ DƯỚI THỜI PHÁP ĐÔ HỘ



Ts. Vũ Thị Hòaß

Qua gần 40 năm cuối thế kỷ XIX thực dân Pháp mới chinh phục được Việt Nam, đặt ách đô hộ trên toàn bộ nước ta. Tuy nhiên, chúng đã chủ trương không xóa bỏ triều đình Huế, mà để nó tồn tại đến năm 1945. Quan hệ giữa chính quyền thực dân với triều đình Huế diễn ra như thế nào? Thực chất của mối quan hệ đó là gì? Vần đề cần được tìm hiểu.
Năm 1784, để chống lại Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã giao hoàng tử Cảnh cho Bá Đa Lộc sang Pháp ký hiệp ước Versailles, hiệp ước mở đường cho thực dân Pháp xâm lược Việt Nam ở cuối thế kỷ sau.
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Trong khi các phong trào đấu tranh của nhân dân ta dấy lên ở khắp nơi tiếp tục kháng chiến thì triều đình Huế đã ký các bản hiệp ước, từng bước dâng nước ta cho chúng. Hai hiệp ước 1862, 1874 đã biến toàn bộ lục tỉnh Nam Kỳ thành thuộc địa của thực dân Pháp. Sau khi mất Nam Kỳ, biết sức mình không thể chống lại được thực dân Pháp, triều đình Huế ngoài việc xin cầu hòa “chuộc đất” với Pháp, còn tìm cách giao thiệp với các cường quốc để cầu viện, đặc biệt là với nhà Thanh. Triều đình Huế đã tiếp xúc với toàn quyền Anh, lãnh sự Tây Ban Nha, lãnh sự Đức ở Hương Cảng. Để hạn chế độc quyền của Pháp ở Việt Nam, các nước phương Tây cũng muốn đặt lãnh sự ở nước ta hoặc ký thương ước. Những cố gắng của triều đình Huế đều bị thất bại. Năm 1885, hiệp ước Thiên Thân giữa Pháp và Trung Hoa quy định nhà Thanh phải thừa nhận sự bảo hộ của thực dân Pháp ở nước ta.
Hai hiệp ước 1883, 1884 chấp nhận sự bảo hộ của thực dân Pháp trên toàn bộ lãnh thổ còn lại của nước ta (Trung Kỳ và Bắc Kỳ). Với hiệp ước 1883 thực dân Pháp chia Việt Nam ra ba “kỳ”. Nước ta mất quốc hiệu. Theo Hiệp ước 1884, triều đình Huế không còn quyền đối ngoại, nhưng về danh nghĩa còn giữ quyền nội trị, quyền bình trị. Điều 16 của hiệp ước ghi rõ: “Hoàng đế An Nam tiếp tục điều khiển như trong quá khứ nền hành chính nội bộ của vương quốc”[1]. Nhưng sau khi đặt ách thống trị lên đất nước ta, thực dân Pháp đã dần từng bước củng cố, mở rộng bộ máy thống trị của mình và dần từng bước tước đi những quyền còn lại của triều đình Huế.
Tại Nam Kỳ, thực dân Pháp trực tiếp nắm quyền ci trọ về mọi mặt. Ngày 25 – 6 – 1867, Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp tại Nam Kỳ ra bản tuyên bố: “Toàn bộ sáu tỉnh Nam Kỳ là lãnh địa của Pháp. Kể từ nay triều đình Huế không còn quyền lực gì đối với Nam Kỳ lục tỉnh nữa. Một chính quyền duy nhất tồn tại ở Nam Kỳ, đó là chính quyền của người Pháp”[2].
Tại Bắc Kỳ, với ý đồ tách Bắc Kỳ khỏi triều đình Huế, thực dân Pháp đề nghị vua Đồng Khánh trao quyền bổ nhiệm quan lại cho một thượng quan Việt Nam đóng ở Bắc Kỳ. Ngày 3 – 6 – 1886 vua ra dụ thiết lập chức Kinh lược sứ Bắc Kỳ. Chức này được thay mặt vua cai quản Bắc Kỳ. Mỗi năm vị Kinh lược chỉ phải một vài lần về kinh tâu vua. Được giao quyền hạn rộng rãi, nhưng viên Kinh lược sứ chủ yếu làm nhiệm vụ trung gian: báo có việc hành chính của các tỉnh về triều đình và Thống sứ Pháp; ban bố các hiệu lệnh của triều đình ra các tỉnh.
Sau khi chiếm cả Campuchia, năm 1887 khối Đông pháp được thành lập, bao gồm thuộc địa Nam Kỳ và ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Cao Miên, đặt dưới sự điều khiển của một viên Toàn quyền. Sắc lệnh tổ chức khối Đông Pháp ghi rõ: “Tất cả các lãnh thổ thuộc Pháp ở Đông Dương sẽ được đặt dưới quyền của quan Toàn quyền là đại diện trực tiếp của chính phủ Pháp trong mọi lãnh thổ sát nhập hay bảo hộ và chỉ chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng Thuộc địa”.
Ngày 27 – 7 – 1897, thực dân Pháp ép vua Thành Thái ra đạo dụ bãi bỏ chức Kinh lược Bắc Kỳ, chuyển giao toàn bộ “quyền hành” vào tay Thống sứ. Từ đây Thống sứ Bắc Kỳ nhân danh nhà vua Việt Nam cai trị xứ Bắc Kỳ mà không tham khảo ý kiến của nhà vua. Ở các tỉnh có Công sứ người Pháp, mọi quan lại Nam triều từ tỉnh đến phủ, huyện, cơ sở đều phục tùng mệnh lệnh Công sứ. Từ đây, vua và triều đình Huế không còn chút quyền hành gì ở Bắc Kỳ.
Năm 1888, vua Đồng Khánh còn nhường cho Pháp “quyền sở hữu” ở Hà Nội, Hài Phòng, Đà Nẵng. Ba tỉnh thành đã trở thành nhượng địa của thực dân Pháp.
Tại Trung Kỳ, triều đình Huế vẫn được duy trì; giúp việc cho vua vẫn có Hội đồng phụ chính. Hội đồng Phủ tong nhân, Viện cơ mật, Hội đồng Thượng Thu. Năm 1897, với cái gọi là “cải tổ”, theo yêu cầu của Pháp, vua bãi bỏ Hội đồng Phụ chính, Hội đồng Thượng thư. Viện cơ mật trở thành một loại Hội đồng nội các mà các phiên họp phải đặt dưới quyền chủ tọa của quan Khâm sứ Pháp ở Trung Kỳ. Nhà cầm quyền Pháp còn cử một số công chức người Pháp biệt phái bên cạnh các vị Thượng thư để phụ tá công việc. Việc bổ nhiệm thăng giáng các aun lại triều đình là do khâm sứ Pháp chuẩn y hoặc trực tiếp bổ nhiệm.
Ngày 16 – 11 – 1925, vua Khải Định mất, Vĩnh Thụy, lên ngôi khi mới 12 tuổi. Nhân dịp này, chính quyền bảo hộ ép Nam triều ký một hiệp ước chuyển giao cho viên Khâm sứ Pháp các quyền hạn chính trị và tư pháp cuối cùng còn lại của vua An Nam (Hiệp ước 25 – 11 – 1925).
Năm 1932, Khâm sứ Pháp còn trở thành Chủ tịch Hội đồng Hoàng tộc.
Ở các chính quyền địa phương, Pháp vẫn dùng một số quan lại người Việt nhưng họ đều do người Pháp bổ nhiệm và được chính quyền thuộc địa trả lương. Quyền lợi của họ gắn chặt với chính quyền thuộc địa chứ không gắn với triều đình Huế.
Như vậy, chế độ bảo hộ đã nhường chỗ cho chế độ trực trị; tổ chức hành chính của Pháp đã choán chỗ của tổ chức hành chính của Việt Nam. Trên thực tế cả ba miền Bắc, Trung, Nam của nước ta đã trở thành thuộc địa của Pháp. Vua quan nhà Nguyễn chỉ là những bù nhìn, tay sai của thực dân Pháp.
Trước sự lấn dần của thực dân Pháp, triều đình Huế đã đôi lần phản kháng, đề nghị cải cách chế độ thống trị của thực dân Pháp, đòi trả lại quyền hành cho nhà Nguyễn, như các vua Thành Thái, Duy Tân đã làm. Năm 1922, vua Khải Định và Thượng thư Nguyễn Hữu Bài, cũng sang Pháp yêu cầu giao lại quyền hành của Bắc Kỳ theo đúng tinh thần của HIệp ước 1884, nhưng không đạt kết quả.
Năm 1932 vua Bảo Đại sau mười năm du học ở Pháp đã trở lại Việt Nam, nhận ngôi báu. Năm 1933, Bảo ĐẠi  quyết định tự mình chấp chính và công bố một chương trình cải cách rộng lớn. Bảo Đại còn cho thành lập Ủy ban cải cách, gồn các vị Thượng thư và các quan chức người Pháp. Nhưng phong trào cải cách do Bảo Đại đề xướng không thành vì chính quyền bảo hộ Pháp không chấp nhận.
Vào nửa cuối những năm 1990, chính phủ Mặt trận Bình dân Pháp thi hành một số cải cách ở Việt Nma. Trước tình hình đó, năm 1938, Bảo Đại lại một lần nữa đưa ra đề nghị sửa đổi hiệp ước bảo hộ, đòi trả lại cho Việt Nam chủ quyền nội bộ, nhưng cũng không được Pháp chấp nhận.
Sau khi Nhật đảo chính Pháp ngày 10 – 3 – 1945, đại sứ Nhật công bố “Việt Nam độc lập”. Ngày 11 – 3 – 1945, Bảo đại tuyên bố chấm dứt chế độ bảo hộ. Trên thực tế nền độc lập mà Nhật Bản trao cho Việt Nam chỉ là giả hiệu. Nền chính trị ở nước ta vẫn y như trước, có khác chăng là công chức người Nhật thay thế người Pháp.
Trước sự xâm lược lấn át dần của thực dân Pháp, tuy triều đình Huế về cơ bản chịu khuất phục ngoan ngoãn làm tay sai, nhưng vẫn có lúc tỏ thái độ chống đối (mạnh mẽ là các vua yêu nước Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân).



ß Khoa Sử – Đại Học Sư phạm Hà Nội
[1] Trích theo: Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ – Nguyễn Thế Anh. Trung tâm xuất bản học liệu. Bộ Văn hóa giáo dục và thanh niên Sài Gòn, 1974.
[2] Việt Nam những sự kiện Lịch sử 1858 – 1918 – Dương Kinh Quốc, NXB Giáo Dục, 1990, tr. 67

KHUÔNG VIỆT ĐẠI SƯ (Ngô Chân Lưu, 933 – 1011)


Danh tăng đời nhà Đinh, pháp danh là Chân Lưu, không rõ tên thật của ông, lúc nhỏ ông theo học nho, sau đó ông đi tu theo dòng thiền Quang Bích ở chùa Khai Quốc, Ông nổi tiếng là người tinh thông Phật học và thông hiểu việc chính trị nên được vua Đinh Tiên Hoàng* trọng dụng và tin dùng. Năm 971 Ngô Chân Lưu được vua ban hiệu là Khuông Việt Đại Sư và giao cho giữ chức Tăng thống, đứng đầu các tăng lữ, hệ thống tăng quan trong triều. Ông thường tham dự việc triều chính, làm cố vấn cho vua. Dưới triều Lê, ông vẫn tiếp tục làm Quốc sư cho vua Lê Đại Hành*. Ông đóng góp nhiều ý kiến quan trọng giúp vua Lê Đại Hành trong cuộc kháng chiens chống quân Tống và sau đó thường giúp vua tiếp các sứ thần nước ngoài.
Ngô Chân Lưu còn là một nhà thơ. Tác phẩm nổi tiếng còn lại của ông là bài Vương Lang Quy. Đó là bài thơ ông vâng mệnh vua Lê Đại Hành làm để tiễn sứ thần nhà Tống là Lý Giác (năm 987).
Lê Quý Đôn đã viết về ông: “Chân Lưu từ điệu danh chấn nhất thời” (Điệu ca của Ngô Chân Lưu đã nổi danh một thời).

L.V.N.

Saturday, June 25, 2016

PHONG TRÀO CẦN VƯƠNG CHỐNG PHÁP CỦA NHÂN DÂN Ở THANH HÓA



Thạc sĩ Vũ Quý Thuß

Cuộc phản công kinh thành của Tôn Thất Thuyết là sự “trỗi dậy” cuối cùng của triều đình phong kiến Nguyễn, trước nguy cơ mất hết quyền lợi thống trị của mình. Tuy nhiên nó cũng thể hiện tinh thần yêu nước, quyết tâm chiến đấu của một số quan lại không chịu đầu hàng. Vì vậy nhân dân ủng hộ và hưởng ứng lời kêu gọi Cần Vương, “Cần Vương” ở đây không phải là khôi phục triều đình phong kiến đã đầu hàng mà ủng hộ một ông vua và quan lại yêu nước chống Pháp, bảo vệ tổ quốc.
Chiếu Cần Vương ban hành đã nhanh chóng thổi bùng một đợt mới ngọn lửa kháng Pháp. Hưởng ứng chiếu Cần Vương, cả một lớp sĩ phu, văn thân yêu nước hăng hái đứng dậy chiêu mộ nghĩa sĩ, lập đồn trại kháng chiến, lãnh đạo phong trào đấu tranh với mục tiêu “Giúp vua cứu nước” (Thực chất là phong trào giải phóng dân tộc dưới ngọn cờ một ông vua yêu nước).
Phong trào Cần Vương kéo dài 12 năm (1885 – 1896), nổ ra trên phạm vi rộng lớn, từ cực Nam Trung Bộ chạy dài tới biên giới Việt – Trung, lan rộng tới biên giới Việt lào, kể cả ở Nam Bộ lúc bấy giờ. Phong trào rộng khắp và sôi nổi nhất là từ giữa năm 1885 đến cuối 1888. Sau thời kỳ phát triển rầm rộ và rộng khắp, phong trào Cần Vươn thu hẹp dần, trungta6m phong trào chuyển lên vùng thượng du và trung du. Những năm còn lại là cuộc khởi nghĩa lớn, có trình độ tổ chức cao, có địa bàn hoạt động rộng.
Thành phần tham gia gồm bộ phận văn thân, sĩ phu yêu nước, kể cả tri thức phong kiến yêu nước, các quan lại phong kiến yêu nước đương quyền hay đã nghĩ hưu (hữu quan. Họ không có đặc quyền đặc lợi ở triều đình, cũng không có gia tư, điền sản lớn ở nông thôn. Trong quan niệm của họ, nước phải gắn liền với vua, với chế độ phong kiến.
Các văn th6n, sĩ phu yêu nước lại được sống gần gũi với dân, tiếp thu truyền thống dân tộc, nên sớm được cuốn hút vào cuộc đấu tranh của nhân dân. Khi triều đình đầu hàng hoàn toàn thực dân Pháp (1884), họ không còn trung vua nữa, mà chống lại lệnh vua để cùng nhân dân tiếp tục kháng chiến. Nhất là sau cuộc nổi dậy ở kinh thành Huế thất bại (7 – 1885), rồi vua Hàm Nghi xuất bôn, ra chiếu Cần Vương (7 – 1885), các văn thân sĩ phu yêu nước mới thật sự tham gia đông đảo và quyết liệt. Họ là đối tượng kêu gọi ứng nghĩa trước tiên và lúc này “ái quốc” mới thật sự gắn liền với “teungqua6n” điều mà trước đó khó xảy ra được đối với những ông phản phúc.
SAu thời kỳ phát triển rầm rộ và rộng khắp (1885 – 1888) phong trào Cần Vương thu hẹp dần và đi vào chiều sâu. Các cuộc khởi nghĩa tiêu biễu là khởi nghĩa Hương Khê – Hà Tĩnh (1885 – 1886) của Phan Đình Phùng và cao Thắng; khởi nghĩa Ba Đình – Thanh Hóa (1886 – 1887) của Phạm Bành và Đinh Công Tráng; khởi nghĩa Hùng Lĩnh – Thanh Hóa (1886 – 1892) của Tống Duy Tân và Cao Điền; khởi nghĩa Bãi Sậy – Hưng Sơn (1883 – 1892) của Nguyễn Thiện Thuật; ngoài ra còn có phong trào Tây Bắc và hạ lưu sông Đả…
Phong trào yêu nước chống Pháp lúc bấy giờ lan nhanh đến Thanh Hóa.
Thanh Hóa – một xứ có tầm quan trọng ở bất cứ thời kỳ lịch sử nào, đã có rất sớm trong phong trào chống Pháp.
“Thanh Hóa tỉnh chí” đã ghi chép vị trí chiến lược của Thanh Hóa “Thiệt là chỗ làm cuống họng cho các tỉnh Bắn Kỳ hiện nay. Thanh Hóa lại là nơi hình mạch hướng vào, thế lớn nhóm lên vậy”[1].
Nguyễn Lộ Trạch (1852 – 1895), nhà tri thức yêu nước có tư tưởng cải cách của thế kỷ XIX, đã nói về vị trí của Thanh Hóa như sau:
Tôn Thất Thuyết khi làm quan ở Thanh Hóa đã sớm chú ý tới miền đất “thánh địa” này. Năm 1879, ông đã từng bổ nhiệm Tống Duy Tân làm Chánh sứ Sơn Phòng Quảng Hóa (Vĩnh Lộc) như có ý đồ chuẩn bị trước lực lượng chống Pháp, người mà sau này trở thành thủ lĩnh của phong trào khởi nghĩa Hùng Lĩnh. Khi phò xa giá Hàm Nghi xuất bôn, Tôn Thất Thuyết đã định xây dựng Thanh Hóa thành thủ đô kháng chiến. Hàm Nghi trong tờ chiếu ngày 19 – 9 – 1885 cũng nói “Trẫm sẽ đóng đô tại tỉnh Thanh Hóa. Đây là một địa điểm quý”[2].
“Thanh Hóa là một vùng đất có đủ 3 điều lợi cơ bản cho việc giữ nước chống giặc: địa điểm, binh lực và trí lực”.
Hưởng ứng chiếu Cần Vương, Thanh Hóa nhanh chóng trở thành một tỉnh có phong trào chống Pháp mạnh mẽ do các sĩ phu yêu nước lãnh đạo, một phong trào trải dài từ miền núi, trung du tới đồng bằng miền biển.
Chiếm xong kinh đô Huế (5 – 7 -1885), bọn Pháp đem quân đổ bộ đánh chiếm Quảng Trị và đưa tàu chiến từ Huế đánh chiếm Nghệ An. Đồng thời một đạo quân Pháp do thiếu úy Mignot chỉ huy xuất phát từ Ninh Bình ngày 22 - 11 – 1885 tiến vào của Hới lên Hàm Rồng đánh chiếm thành Thanh Hóa. Bố chánh Nguyễn Khoa Luật được sự hưởng ưng của nghĩa quân Hoằng Hóa do Nguyễn Đôn Tiết, Lê Tri Trực chỉ huy đã bố trí đánh địch dọc sông Mã và đoạn đường từ sông vào tỉnh lỵ. Khi chiếu Cần Vương đến Thanh Hóa thì phong trào càng rộng khắp và mạnh mẽ.
Tôn Thất Hàm (em Tôn Thất Thuyết) đang là tri phủ Nông Cống cùng Nguyễn Quý Yêm bỏ quan chức phối hợp với nghĩa quân Tĩnh Gia của Nguyễn Phương Nghĩa, quân vùng núi Nửa của Lê Ngọc Toản hoạt động ở Tỳ Thượng (địa điểm giáp giới Nông Cống – Nghệ An), đóng căn cứ vùng Đồng Mười huyện Như Xuân để đón vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết.
Vùng núi Hoàng, núi Vượng, Hồi Cù có Tuấn Văn, tại huyện Đông Sơn có Lê Khắc Thảo quê ở Bái Giao (nay là xã Thiệu Giao – Thiệu Hoa tổ chức nghĩa binh phối hợp với Nguyễn Hữu Liên (tức Tú Mềm người Đại Bái). Nguyễn Hữu Hanh, La Văn Hạnh, La Đức Tứ, La Duy Hoành, Thiếu Giá thành lập đội nghĩa quân tại Bôn (nay đã là xã Đông Thanh – huyện Đông Sơn).
Nghĩa quân Nguyễn Thế Sanh, Thiều Kim Nễ ở làng Viện Giàng, Nguyễn Trọng Tần ở làng Phù Lưu (cầu Trâu) có căn cứ vùng núi Nhồi liên hệ với nghĩa quân nhiều nơi khác tronh tỉnh. Phong trào chống Pháp nhanh chóng lan rộng ra khắp tỉnh.
Tuy phong trào Cần Vương, chống Pháp của nhân dân Thanh Hóa lúc bấy giờ nổi bật là cuộc khởi nghĩa do Nguyễn Ngọc Phương  (Tú Phương) lãnh đạo với căn cứ Ổn Lâm – Kỳ Thượng.
Việc xây dựng căn cứ Ổn Lâm – Kỳ Thượng có ý nghĩa quan trong trong phong trào Cần Vương lúc này, nhằm thống nhất các lực lượng ở huyện, hình thành bộ chỉ huy nghĩa quân, đưa phong trào tiến lên giai đoạn mới.
Căn cứ Ổn Lâm – Kỳ Thượng nổi lên ở một vùng nam Thanh Hóa, giáp Nghệ An, là điểm nối phong trào Cần Vương Trunh Kỳ, từ Huế trở ra, trực tiếp gắn với hoạt động của nghĩa quân xứ Nghệ mà tiêu biểu là phong trào Nguyễn Xuân Ôn, Lang Văn Thiết…Rõ ràng căn cứ Ổn Lâm – Kỳ Thượng là một điểm sáng trên bản đồ của Thanh Hóa cả tỉnh rất tích cực chống Pháp, có đặc điểm, chiến thuật, chiến lược riêng, có thành tích góp vào phong trào Cần Vương.
Việc nghiên cứu Tú Phương và căn cứ Ổn Lâm  - Kỳ Thượng lâu nay chỉ mới được “điểm qua loa”. Muốn hiểu biết đầy đủ phong trào yêu nước chống Pháp ở địa bàn Thanh Hóa thì việc hiểu kỹ về Tú Phương và căn cứ Ổn Lâm – Kỳ Thượng là rất cần thiết.
Tóm lại, phong trào đấu tranh chống Pháp ở Thanh Hóa cuối thế kỷ XIX đã phát triển rộng khắp, có địa bàn chiến lược từ đồng bằng, trungdu, đến miền núi, thu hút sự tham gia của hầu hết các tầng lớp nhân dân yêu nước. Phong trào còn liên kết và mở rộng địa bàn hoạt động sang các vùng, các tỉnh lân cận, tạo thành một phong trào có quy mô rộng lớn. Đó là đặc điểm nổi bật, một thực tế lịch sử rất đáng được chú ý khi nghiên cứu phong trào Cần Vương chống Pháp ở Thanh Hóa. Về mặt thời gian, phong trào kháng chiến chống Pháp ở Thanh Hóa bùng nổ vào loại sớm nhất, và cũng là phong trào kéo dài, liên tục và bền bỉ nhất. Trong khi tiếng súng Cần Vương chống Pháp ở các tỉnh ngoài Bắc trong nam, kể cả phong trào khởi nghĩa Hương Khê (Hà Tĩnh) đã dần dần lắng xuống thì ở Thanh Hóa cuộc kháng chiến vẫn phát triển và càng đến giai đoạn cuối, phong trào càng diễn ra quyết liệt, biểu hiện bằng loạt trận chiến đấu quy mô lớn của nghĩa quân, như các trận: Suối Tất, trận đánh đồn Thổ Sơn (gần Bái Thượng)[3].
Dựa vào điều kiện cụ thể và phát huy ưu thế của địa bàn chiến lược, phongtrao2 kháng chiến ở Thanh Hóa cuối thế kỷ XIX đã nổ ra; nghĩa quân biết sử dụng nhiều phương thức tổ chức tác chiến, thể hiện nghệ thuật quân sự độc đáo và tính chất nhân dân của phong trào…
Cũng giống như cả nước, người nắm quyền lãnh đạo phong trào kháng chiến ở Thanh Hóa chủ yếu là các sĩ phu, văn thân yêu nước, tiêu biểu như tiến sĩ Tống Duy Tân, Phó bảng Nguyễn Đôn Tiết, các Cử nhân Hoàng Bật Đạt, Phạm Bành, Tú tài Nguyễn Phương…hay các lãnh đạo miền núi như: Cầm Bá Thước, Hà Văn Mao. Do hoàn cảnh lịch sử, xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX, song trước hết là tấm lòng yêu nước mà họ đã đứng dậy dựa vào tinh thần độc lập dân tộc, cơ sở văn hóa ngàn năm của dân tộc, mà gần gũi với quần chúng nhân dân, do đó, họ đả tổ chức động viên tập hợp nhân dân kháng chiến chốn Pháp, được nhân dân hết lòng ủng hộ.
Tuy thế, do hạn chế của giai cấp xuất thân, và thời đại lịch sử, nên họ không đủ khả năng thu hút lực lượng kháng chiến vào một khối thống nhất, đấu tranh theo đường lối và phương pháp cách mạng rõ ràng cụ thể, vừa chuẩn xác vừa thích hợp. Chính vì vậy, phong trào chống Pháp ở Thanh Hóa cũng như trên phạm vi cả nước, tuy đã bùng lên sôi nổi, phát triển rộng khắp và kéo dài bền bỉ, nhưng cuối cùng không tránh khỏi thất bại.
Mặc sù vậy, sự hy sinh của chiến sĩ Cần Vương đã để lại cho các thế hệ sau những bài học bổ ích và thiết thực “Cái chết của họ làm cho Tổ quốc sống lại, lòng can đảm của họ bất diệt”[4]




ß ĐH Hồng Đức
[1] Lịch sử thành phố Thanh Hóa – Đinh Xuân Lâm (chủ biên), (1804 – 1947), NXB Thanh Hóa, 1990, tr. 11
[2] Sđd, tr. 12
[3] Kỷ yếu hội thảo khoa học kỷ niệm khởi nghĩa Ba Đình 186 – 1896. Ban nghiên cứu lịch sử Thanh Hóa tổ chức, NXB Thanh Hóa, 1992, tr. 81
[4] Trần Dân Tiên. Những mẫu chuện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, NXB Sự thật, Hà Nội, 1976, tr. 35

KHÚC THỪA DỤ (? – 907)


Người mở đầu công cuộc tự chủ của đất nước. Ông quê ở Hồng Châu (xã Cúc Bồ, huyện Ninh Thanh, Hải Hưng), là một hào trưởng có tính khoan hòa, hay thương người nên được dân chúng khâm phục, quý mến. Vào cuối thế kỷ thứ 9, nhà Đường ở Trung Hoa suy yếu, trong triều các phe phái tranh giành quyền lực với nhau. Viên Tiết độ sứ do nhà Đường cử sang cai trị đất Giao Châu (Việt Nam) là Độc Cô Tổn bị bãi chức, đày đi nơi khác. Đấy là viên Tiết độ sứ cuối cùng nhà Đường cử sang cai trị Giao Châu. Lợi dụng thời cơ khi chính quyền đô hộ như rắn mất đầu, Khúc Thừa Dụ đã khởi binh giành chính quyền và tự xưng là Tiết độ sứ. Triều đình nhà Đường buộc phải công nhận chức Tiết độ sứ và còn phong thêm tước cho ông. Tuy mang danh nghĩa là một quan chức của nhà Đường nhưng Khúc Thừa Dụ đã xây dựng một chính quyền tự chủ, đặt cơ sở cho nền độc lập dân tộc, chấm dứt về cơ bản ách thống trị hơn một nghìn năm của phong kiến phương Bắc. Ông cũng mở đầu cho một đường lối ngoại giao khôn khéo với triều đình phong kiến phương Bắc: “độc lập thật sự, thần thuộc trên danh nghĩa”.
Ngày 23 tháng 7 năm 907, Khúc Thừa Dụ mất. Con trai là Khúc Hạo* tiếp tục sự nghiệp xây dựng nền tự chủ của dân tộc.

L.V.N.

TRIỂU ĐÌNH NHÀ NGUYỄN VỚI PHONG TRÀO CHỐNG PHÁP Ở TÂY BẮC (NỬA SAU THẾ KỶ XIX)


Th.s. Phan Văn Lựcß

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào nửa sau thế kỷ XIX, nhân dân Tây Bắc cùng đồng bào cả nước đấu tranh mạnh mẽ.
Tây Bắc bao gồm 10 châu Thái lúc này thuộc tỉnh Hưng Hóa[1], là địa bàn cư trú của 23 dân tộc anh em: Thái, Mông, Lự, Hoa, Kinh, Khơ Mú, Tày, Mường…[2]. Các dân tộc Tây Bắc tuy còn nghèo nàn lạc hậu nhưng giàu truyền thống yêu nước, kiên cường bất khuất trong kháng chiến chống ngoại xâm vì tự do độc lập của dân tộc dưới sự chỉ đạo của tuần phủ Nguyễn Quang Bích, kết hợp với quân “Cờ đen” của Lưu Vĩnh Phúc (bộ phận nghĩa quân nông dân Trung Quốc giúp ta chống Pháp), nhân dân các dân tộc Tây Bắc đã phát huy truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất của mình, thành lập đạo quân “Thập Châu” kiên quyết đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Nghĩa quân “Thập Châu” đều do thủ lĩnh các châu mường chỉ huy và được chia làm 4 đội: Đội quân Văn Bàn, Văn Chấn dưới sự chỉ huy của Nguyễn Văn Quang, đội quân Mộc Châu do Sa Văn Nọi chỉ huy, đội quân Thuận Châu, Mai Sơn, Yên Châu, Mường LA do Cầm Bun Hoan chỉ huy, đội quân Lai Châu, Phong Thổ do thủ lĩnh châu mường Điêu Văn Trì lãnh đạo[3]. Nghĩa quân “Thập Châu” cùng với quân “Cờ Đen” của Lưu Vĩnh Phúc là lực lượng nòng cốt của đạo quân Sơn Tây trong phong trà chống Pháp vùng Tam Tuyên (Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quan) thời kỳ này.
Đầu tháng 11/ 1873, do sự nhu nhược của triều đình phong kiến Nguyễn, thực dân Pháp liên tục lấn tới, ngày 12/11/1873 F.Garrnier gửi tối hậu thư, đòi Nguyễn Tri Phương phải hạ vũ khí và giao nộp thành Hà Nội và một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Nguyễn Quang Bích và Lưu Vĩnh Phúc nghĩa quân “Thập Châu” bao gồm hơn 800 nghĩa binh cùng với hơn 1,6 vạn dân binh đã sang Lào Cai phối hợp với đạo quân Tam Tuyên để về vây giặc ở thành Hà Nội, “Quan tô mương” của Mường Lò viết: “Cả mười châu Thái đều theo ông Lưu đi đánh giặc… Theo lệnh ông Lưu cùng “Thập Châu” đem quân đến Lào Cai đểvề xuôi đánh giặc”[4]. Sau hơn bốn tháng chiến đấu, Pháp bị quân ta vây nhốt ở trong thành trở nên hoang mang, ngày 21/12/1873 Garnier buộc phải mang quân ra Sơn Tây để phá vòng vây. Song vừa đến Cầu Giấy thì quân Pháp rơi vào ổ phục kích của ta, bị tiêu diệt gần hết, garnier cũng bị quân ta giết tại trận[5]. Trong chiến thắng này, có sự đóng góp của nhân dân Tây Vắc.
Trong cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp tiến công thành Hà Nội, mở đầu cho hành động xâm lược Bắc Kỳ lần thứ hai…[6] nhân dân ở nhiều địa phương Tây Bắc đã tự mộ quân kiên quyết đứng lên kháng chiến. Sau khi Tổng đốc Hoàng Diệu tự vẫn, thực dân Pháp đang tìm mọi cách để mở rộng phạm vi đánh chiếm ở Bắc Kỳ, tiến lên vùng “Thập Châu”, nơi thường xuyên bị giặc “Cờ Vàng” (tàn quân của Thái Bình Thiên Quốc) phá phách, cướp bóc. Dưới sự chỉ đạo của Nguyễn Quang Bích và Lưu Vĩnh Phúc đã bức được quân “Cờ Vàng” và dàn xếp được sự bất hòa nội bộ giữa phe phái trong lực lượng chống Pháp ở Tây Bắc. Lực lượng kháng chiến chống Pháp ở vùng “Thập Châu” cũng có dịp phát triển mạnh mẽ hơn. Nghĩa quân “Thập Châu” một mặt tích cực củng cố, xây dựng các căn cứ kháng chiến ở thượng lưu sông Đà và dọc sông Thao, một mặt vẫn tiếp tục theo đường Thanh Sơn – Thu Cúc sang Sơn Tây kéo quân về để vây giặc ở Hà Nội. Với lực lượng đông đảo trên 1000 người và khoảng 2000 dân binh, nghĩa quân Tây Bắc đã đảm nhiệm một hướng quan trọng ở phía Tây thuộc khu vực Cầu Giấy và toàn bộ phủ Hoài Đức (Hà Tây). Trong suốt quá trình vây giặc ở Hà Nội, nghĩa quân “Thập Châu” chiến đấu kiên cường, áp dụng chiến thuật bắn tỉa để tiêu hao sinh lực địch và đêm đêm dùng thang tre vượt thành vào quấy nhiễu địch, gây cho chúng nhiều thiệt hại…[7].
Sau gần một năm bị vây nhốt trong thành, thực dân Pháp  bị dồn vào tình thế khốn quẫn tưởng chừng như ngột ngạt đến khó thở; chính bọn cùng đã phải thừa nhận: “Quân lính bị bao vây trong thành Hà Nội tưởng như thiếu không khí để thở…”[8]. Trong tình hình quẫn bách đó, không có cách nào khác, mờ sáng ngày 19/5/1883, Henri Rivière (Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Bắc Kỳ) đã phải liều chết dẫn 550 lính cùng 3 cỗ đại bác yểm trợ đánh ra Cầu Giấy và phủ Hoài Đức (Hà Tây). Tại dây nghĩa quân “Thập Châu” cùng với quân “Cờ Đen” đã mai phục sẵn và chiến đấu hết sức dũng cảm. Sau hơn 2 giờ chiến đấu đến khoảng 7 giờ sáng quân ta đánh bại hoàn toàn âm mưu phá vòng vây của giặc Pháp, giết chết tại trận H.Rivière. Tinh thần chiến đấu của nghĩa quân “Thập Châu” đã được phản ánh trong “Quan Tô mương” của Mường La Quan Đề tướng (tức Lưu Vĩnh Phúc) sai tướng Ba Dếnh (tức Lưu Bá Anh) cùng binh Ngô (người Hoa), Thái, dàn binh hai mặt đánh Tây, còn mình cầm binh đánh chặn mặt sau. Khi lâm trận, Tây bắn trọng thương tướng Ba Dếnh nhưng ông lập tức bắn trả. Đạn của ông Ba Dếnh trúng tên quan năm,chỉ huy quân Tây chết…”[9]. Chiến thắng Cầu Giấy lần thứ hai của nghĩa quân “Thập Châu” vùng Tây Bắc và đạo quân Tam Tuyên đã làm lung lay ý đồ xâm lược nước ta của thực dân Pháp. Thắng lợi này đúng ra cần phải được phát huy nhưng do bản chất bạc nhược, ươn hèn của triều đình phong kiến Nguyễn sợ các lực lượng kháng chiến hơn sợ giặc, lại ra lệnh triệt thoái các lực lượng chống Pháp và chấm dứt các hoạt động quân sự ở khu vực Hà Nội để triều đình thương lượng với Pháp mong sao chúng tự rút khỏi Bắc Kỳ như hồi năm 1873. Tuy nhiên với truyền thống yêu nước, tinh thần chiến đấu quả cảm, Nguyễn Quang Bích và các thủ lĩnh nghĩa quân “Thập Châu” vùng Tây Bắc cùng đạo quân Tam Tuyên vẫn tiếp tục ở lại vây thành Hà Nội them một thời gian nữa, đến cuối tháng 6 đầu tháng 7 mùa mưa, nước lũ không có lợi cho các hoạt động quân sự, nghĩa quân buộc phải rút về căn cứ Sơn Tây[10].
Từ năm 1883 tình hình có nhiều chuyển biến tích cực, phong trào chống Pháp của nhân dân ta sục sôi khắp các địa phương trong cả nước. Đứng đầu phe chủ chiến, Tôn Thất Thuyết thường xuyên liên hệ và luôn luôn ủng hộ phong trào chống Pháp của nhân dân ta trong đó có phong trào chống Pháp của nhân dân các dân tộc Tây Bắc…Có chỗ dực là phe chủ chiến. Nguyễn Quang Bích cùng các thủ lĩnh nghĩa quân vùng “Thập Châu” không những một lòng kiên định tinh thần chống Pháp, kháng lệnh triều đình không chịu rút quân mà còn trực tiếp cùng đạo quân Sơn Tây chống thực dân Pháp xâm lược khi chúng mở rộng phạm vi đánh chiếm lên căn cứ Sơn Tây, vùng Tây Bắc và thượng lưu sông Đà. Khi thực dân Pháp chiếm Sơn Tây ngày 16 – 17/12/1883 nghĩa quân một mặt rút về tích cực lập tuyến phòng thủ ở Yên Lập (Phú Thọ) để bảo vệ thành Hưng Hóa, Phủ Lạng Thương và Tuyên Quang… Đến khi thành Hưng Hóa thất thủ (ngày 12 tháng 4/1884) nghĩa quân “Thập Châu” lại rút về tiếp tục xây dựng căn cứ chống Pháp ở dọc sông Thao.
Sauk hi triều đình phong kiến Nguyễn ký với Pháp điều ước Patenotre (ngày 6/6/1884) thừa nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Bắc Kỳ và ngày 9 tháng 6 năm 1885 triều đình Mãn Thanh cũng ký với Pháp hiệp ước Thiên Tân. Theo hiệp ước, triều đình Mãn Thanh buộc phải rút các lực lượng đã đưa sang nước ta từ khi Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ hai (25/4/1882)[11].
Tình hình đó làm cho phong trào chống Pháp ở nước ta nói chung và phong trào chống Pháp ở “Thập Châu” nói riêng có những diễn biến phức tạp, nhìn chung có phần bị suy giảm. Trong lúc khó khăn, mâu thuẫn trong nội bộ những người lãnh đạo nghĩa quân lại nảy sinh; hàng ngũ nghĩa quân có sự phân hóa, một số thủ lĩnh quá mệt mỏi như Cầm Bun Hoan, Nguyễn Văn Quang là những người đầu tiên đã ra hàng giặc, một số thủ lĩnh bỏ về quê nằm im.
Chỉ còn một số ít thủ lĩnh như Sa Văn Nọi (Mộc Châu), Điêu Văn Toa (Phong Thổ)…vẫn kiên định cùng với Nguyễn Quang Bích tiếp tục gây dựng lại phong trào chống Pháp ở vùng “Thập Châu” Tây Bắc.
Tháng 7/1885 vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương, phong trào Cần Vương bùng nổ ở khắp các tỉnh miền Trung và Bắc Kỳ, nhiều văn thân, sĩ phu hưởng ứng chiếu Cần Vương đã vận động nhân dân nổi dậy chống Pháp, điển hình là các cuộc khởi nghĩa Ba Đình, bãi Sậy, Hương Khê… Ở “Thập Châu” từ khi thành Hưng Hóa thất thủ, Nguyễn Quang Bích cùng nghĩa quân tiếp tục dựa vào vùng rừng núi Hưng Hóa để xây dựng căn cứ chống Pháp ở dọc sông Thao. Trong điều kiện hết sức khó khăn, Nguyễn Quang Bích vẫn kiên định tinh thần chống Pháp, ông đã trực tiếp chỉ huy việc xây dựng căn cứ chống Pháp mà trung tâm lúc này là vùng Đại Lịch, Mường Cơi, Thu Cúc, Lai Đồng (Nghĩa Lộ), Yên Lập (Vĩnh Phúc), Vạn Yên, Phù Yên, Mộc Châu (Sơn La), Phong Thổ (Lai Châu). Ở đây đồng bào các dân tộc Mường, Thái, Dao, Mông đã đoàn kết một lòng dưới ngọn cờ nghĩa của vị thủ lĩnh Nguyễn Quang Bích kiên quyết chống Pháp, làm cho chúng gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình đánh chiếm khu vực Tây Bắc và vùng thượng lưu sông Đà…Từ năm 1887 – 1889 sau khi được tăng viện, thực dân Pháp dựa vào một số thủ lĩnh nghĩa quân đã hàng giặc dẫn đường đánh mạnh vào các căn cứ chống Pháp ở dọc sông Thao, Nghĩa Lộ, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Lai Châu. Đặc biệt, ngày 10/10/1889 thực dân Pháp từ Bắc Ninh mở cuộc tiến công lớn vào đại bản doanh của phong trào chống Pháp ở vùng “Thập Châu” Tây Bắc tại xã Mộ Xuân – Yên Lập – Phú Thọ[12]. Trong điều kiện hết sức chênh lệch nên đại bản doanh của nghĩa quân ở Mộ Xuân nhanh chóng bị thực dân Pháp đánh chiếm. Căn cứ chống Pháp ở Tây Bắc cũng lần lượt tan vỡ…Kết thúc một thời kỳ đấu tranh oanh liệt chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân các dân tộc Tây Bắc.



ß Trường Đại học Tây Bắc
[1] Việt Nam những sự kiện (1858 – 1918), Dương Kinh QỐc, NXB Giáo dục Hà Nội, năm 2001, tr. 286
[2] Các tộc người ở Tây Bắc Việt Nam, Ban dân tộc Khu tự trị Tây Bắc xuất bản năm 1972
[3] Nhân dân các tỉnh Tây Bắc chống thực dân Pháp xâm lược (1858 – 1930). Bản sơ thảo của Bùi Tịnh, Cầm Trọng – ban bân tộc Khu tự trị Tây BẮc ấn hành năm 1972, tr. 33 – 37.
[4] Quan tô mương của Mường Lò, kể chuyện bản nường của Mường Lò (bản viết tay). Tư liệu điền dã tại Mường Lò – Nghĩa Lộ tháng 5/2000
[5] Quan tô mương của Mường Lò, kể chuyện bản nường của Mường Lò (bản viết tay). Tư liệu điền dã tại Mường Lò – Nghĩa Lộ tháng 5/2000
[6] Việt Nam những sự kiện lịch sử (1858 – 1918). Dương Kinh Quốc. NXB Giáo dục. Hà Nội năm 2001, tr. 217
[7] Quan tô mương của Mường Piềng (Thuận Châu – Sơn La). Kể chuyện bản mường của Mường Piềng (bản viết tay). Tư liệu điền dã tại Mường Piềng – Thuận Châu – Sơn La tháng 7/2001
[8] Nhân dân các dân tộc Tây Bắc chống thực dân Pháp xâm lược (1858 – 1930). Bản sơ thảo của Bùi Tịnh, Cầm Trọng – Ban dân tộc Khu tự trị Tây Bắc ấn hành năm 1972, tr. 27
[9] Quan tô mương của Mường La (Sơn La). Kể chuyện bản mường La (bản viết tay). Tư liệu điền dã tại Mường La tháng 7/2001
[10] Nhân dân các dân tộc Tây Bắc chống thực dân Pháp xâm lược (1858 – 1930). Bản sơ thảo của Bùi Tịnh, Cầm Trọng – Ban dân tộc Khu tự trị Tây Bắc ấn hành năm 1972, tr. 27 - 28
[11] Dương Kinh Quốc, Việt Nam Những sự kiện lịch sử (1858 – 1918). NXB Giáo Dục. Hà Nội năm 2001, tr. 149.
[12] Dương Kinh Quốc, Việt Nam những sự kiện lịch sử (1858 – 1918), NXB Giáo Dục, Hà Nội năm 2000, tr. 136

KHÚC HẠO (? – 917)


Ông là con của Khúc Thừa Dụ*, thay cha làm Tiết độ sứ năm 907. Lúc bấy giờ nhà Hậu Lương vừa thành lập ở Trung Hoa vẫn nuôi mộng xâm lược lại đất nước ta. Trước tình hình đó, Khúc Hạo cố chăm lo xây dựng nền độc lập dân tộc, giữ vững đất nước. Đường lối cai trị của ông là: “Chính sự cốt chuộng khoan dung, giản dị, nhân dân đều được yên vui”. Ông đã thi hành nhiều cải cách quan trọng: xây dựng một chính quyền dân tộc thống nhất từ trung ương cho đến xã, sửa đổi chế độ điền tô, thuế má vốn là những ách nặng nề nhân dân phải chịu dưới thời lệ thuộc nhà Đường. Dưới thời ông, bộ mặt đất nước đã bắt đầu đổi mới, đời sống nhân dân dễ chịu hơn trước. Công cuộc xây dựng nền tự chủ, thống nhất của ông mở ra một thời kỳ phát triển mới của xã hội Việt Nam, được những triều đại sau kế tục.
Năm 917, Khúc Hạo mất, con là Khúc Thừa Mỹ lên thay, vẫn xưng là Tiết độ sứ.

L.V.N.

Monday, June 20, 2016

NHÌN NHẬN CỦA PHAN BỘI CHÂU VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NHÀ NGUYỄN ĐỂ NƯỚC TA MẤT VỀ TAY THỰC DÂN PHÁP CUỐI THẾ KỶ XIX



PGS. TS. Nguyễn Đình Lễß

Xung quanh vấn đề nguyên nhân mất nước và trách nhiệm của nhà Nguyễn để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp có nhiều ý kiến khác nhau trong nghiên cứu cững như trong dạy học lịch sử. Nhìn chung các nhà sử học, giáo dục lịch sử đều thống nhất rằng triều đình Huế phải chịu trách nhiệm trong việc làm mất nước. Lý giải cho quan điểm này, các nhà sử học và giáo dục lịch sử đã quy vua tơi nhà Nguyễn các tội hèn yếu, bảo thủ, không chịu tiến hành canh tân đất nước…Những điều này được xem là nguyên nhân dẫn đến việc mất nước.
Góp phần giải quyết những vấn đề trên, chúng tôi giới thiệu một số quan điểm của Phan Bội Châu đối với thái độ của vua tôi nhà Nguyễn trong việc nước ta mất nước vào tay thực dân Pháp.
Phan Bội Châu là một nhà yêu nước nhiệt thành, từ thuở niên thiếu đến cuối đời luôn sục sôi “bầu máu nóng”, với nguyện ước “vì nước, vì dân”. Tuy không mấy thành công trong quá trình đấu tranh cứu nước, như cụ từng đánh giá trong “Phan Bội Châu niên biểu”: “Than ôi! Lịch sử của ta là lịch sử của trăm thất bại mà không một thành công”, song cuộc đời và sự nghiệp yêu nước của Cụ đã để lại cho nhân dân một si sản quý báy – “Cứu quốc tồn chủng” (lo cứu nước bảo vệ nòi gióng), như Cụ đã ghi trong “Lời cáo biệt đồng bào”.
Dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, Phan Bội Châu mong mọi người tù vua quan đến thứ dân biệt nhục mất nước mà đứng lên đấu tranh cứu nước. Bởi vì, “Không có gì đau bằng người mất nước, cũng không có gì đau bằng người bị mất nước mà bàn việc nước!”[1]. Cũng từ mục tiêu cứu nước là chủ yếu cho nên đối với Phan Bội Châu trong việc đánh giá một con người Việt Nam, dù là vua, quan hay thuộc một tầng lớp xã hội nào khác, chỉ dựa vào một tiêu chuẩn chung. Đó là có lòng yêu nước và quyết tâm đấu tranh đánh đuổi giặc cứu nước hay không?
Qua nhiều tác phẩm của Phan Bội Châu, đặc biệt trong “Việt Nam vong quốc sử”, chúng ta dễ dàng nhận thấy Cụ hết lời ca ngợi những người yêu nước và lên án bọn bán nước, kẻ phản bội đầu hàng, không kể những người này thuộc giai cấp nào, tầng lớp nào trong xã hội.
Đối với các vua nhà Nguyễn, Phan Bội Châu cũng khách quan nhìn nhận rằng buổi đầu thời Gia Long, do “vua tôi Việt Nam hòa Thuận, đối với chính giáo không thiếu sót…”, nên thực dân Pháp “chưa dám khinh xuất động binh”[2]. Song, “đến khoảng đầu Tự Đức, thấy nước Việt Nam quả là yếu hèn, chính giáo, dân quyền ngày càng bị tướt bớt, công luận không được mờ rộng”, nên Pháp mới “đem thuyền binh, xuất kỳ bất ý lẻn ra đánh Đà Nẵng”[3].
Phan Bội Châu không ca ngợi vua nào của nhà Nguyễn, kể cả Hàm Nghi, Thành Thái, nhưng cũng lên án gay gắt thái độ, cách cư xử của thực dân Pháp đối với các vua có lòng yêu nước. Điều này, xuất phát từ một cơ sở mà Phan Bội Châu nêu ra: “Nguyên Việt Nam là một nước có vua”[4]. Cần phải hiểu rằng, Phan Bội Châu đã nói đến một thực tế, một điều thuộc về pháp lý lúc bấy giờ: nước có vua. Cho nên Cụ mới lên án “ Người Pháp đã đánh hạ kinh thành, vua Hàm Nghi vì thế phải chạy ra, đến nơi nào thì một tất đất đều là đất cũ của tổ tong cha mẹ, có can gì đến người Pháp? Thế mà người Pháp đã theo bắt cho kỳ được, đem đày ở nơi xa tít mãi đất Algen…lại giam ở nhà kín, cấm không được giao thong với người ngoài, lại cấm đứt những tin tức qua lại, hỏi han người Việt. Đem một ông vua có đức mà không có tội lỗi gì cầm tù nơi đất khách…”[5].
Còn đối với triều thần thì thái độ của Phan Bội Châu cũng rất rõ ràng: phê phàn, đả kích những viên quan hèn nhát, ca tụng những người chiến đấu hy sinh cho đất nước. Cụ dành nhiều trang trong “Việt Nam vong quốc sử” để trình bày “Tiểu truyện các chí sĩ lúc mất nước”, như Nguyễn Bích ở Nam Định, Nguyễn Đôn Ti6et1 ở Thanh Hóa, Lê Trung D(ình, Trần Du ở Quảng Ngãi, Nguyễn Hữu Chính, Nguyễn Xuân ở Nghệ An và đặc biệt là Phan Đình Phùng ở Hà Tĩnh.
Như vậy Phan Bội Châu đứng trên quan điểm yêu nước để đánh giá các vua, quan nhà Nguyễn, nhưng không phải không đề cập đến trách nhiệm của triều đình Huế trong việc làm mất nước. Trong bài “Phổ cáo lục tỉnh” (gửi đồng bào sáu tỉnh Nam Kỳ), dùng lời Cường Để – một hoàng thân Nhà Nguyễn – nói với nhân dân miền đất mới khai phá từ thời các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, nhằm thu hút được sự ủng hộ tích cực của nhân dân Nam Bộ đối với phong trào Đông Du của Duy Tân hội do Cường Để là “Hội chủ”. Phan Bội Châu đã nói đến công lao khai phá đất đai, ca tụng những anh hùng liệt sĩ Nguyễn Hữu Huân, Trương Định, Nguyễn Trung Trực, “đều khẳng khái bỏ mình, khí anh linh lẫm liệt, các vị đã chết nhưng không hề mai một”[6].
Mặt khác cũng phê phán việc Nguyễn Ánh đã liên kết với Pháp, gây dựng lực lượng để độc quyền thống trị đất nước, dẫn tới cái họa mất nước sau này: “Chúng nó từng đem Đông cung Thái tử Cảnh là dòng tích tôn năm đời của Gia Long là một kẻ bất tài, lại gặp lúc vận bỉ đem ra hải ngoại rồi bí mật lập quan hệ ngoại giao”[7].
Từ việc vạch trần ý đồ của Nguyễn Ánh dựa vào ngoại bang để đánh bại Tây Sơn, rồi ngày một lệ thuộc vào Pháp, dẫn tới chỗ khuất phục, đầu hàng. Quá trình này bắt nguồn ở bản chất vua tôi nhà Nguyễn. Phan Bội Châu đã phê phán rất gay gắt rằng: “…Ví sử vua tôi người Việt Nam thường nghĩ đến tiến bộ, lo mở mang dân trí, lo đào tạo nhân tài, về quốc kế quân mưu, mọi việc đều cầu tiến bộ, có lẽ đâu lại không như lửa mạnh mà được củi khô bốc lên rừng rực sáng đỏ thấu trời đất ư? Người ta cũng có nói: “đồ đựng đầy thời nghiêng đổ”. Người Việt bấy giờ tự coi là mãn túc, ôm vàng vênh váo, ếch ngồi đáy giếng không trông thấy trời, văn vui chơi, võ yên nghĩ ngày càng thậm tệ. Trong khi ấy về chính giáo thì chứa chất hủ lậu, mọi việc đều mô phỏng Minh Thanh, văn nhân thì khư khư giữ theo sách cũ, tự khoe đắc chí; vũ sĩ thì cốt ở cờ trống mỹ quan, côn quyền coi như trò chơi, tự cho là không ai hơn được. Đáng bỉ hơn hết là ức chế dân quyền, coi thường dư luận, phàm bàn việc quốc gia đại kế, nhân dân chỉ được ở ngoài hỏi rồi than thở mà thôi”[8].
Trng đoạn dẫn trên, tuy Phan Bội Châu không trực tiếp nêu rõ là vua quan Nhà Nguyễ, song qua đó hiểu rõ đối tượng mà Cụ chỉ trích là triều đình Huế. Nhưng điều mà Phan Bội Châu nêu lên phản ánh thực trạng xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, thái độ, tư tưởng bảo thủ, rập khuôn, sợ dân, xa rời dân, áp bức bóc lột nhân dân là đúng sự thực đã diễn ra.
Nhận xét về tình hình đất nước, triều đình lúc bấy giờ, Phan Bội Châu cũng nêu một giả định lịch sử; là giả định không có cơ sở thực tế khách quan. Bởi vì, trong những điều kiện tương tự như Việt Nam trước nguy cơ xâm lược của thực dân phương Tây, có nước đã canh tân đất nước, thoát khỏi thân phận một nước nô lệ. Tiêu biểu là Nhật Bản mà Phan Bội Châu đã nhìn thấy và hy vọng, mong ước sự giúp đỡ của “đồng văn, đồng chủng”. Giả định của Phan Bội Châu như sau: “Nước Việt Nam lúc bấy giờ biết chăm lo tu chỉnh về quân chính, mở rộng dân quyền, vua tôi trên dưới đều mạnh mẽ mưu trị nước, nghiên cứu sâu trí học của ngoại dương, tẩy trừ khuôn khổ hủ lậu, “kịp khi trời chưa mưa dầm, lấy những gốc dâu mà gài chằng cửa sổ,”, nước còn có thể phấn chấn lên được.
Nhưng nước Việt Nam mơ màng đôi mắt ngủ, uể oải thân bệnh, tôn quân quyền, trọng hủ văn, khinh võ sĩ, trộm cướp rình mò ở sân, mà vợ con say hát trong nhà, chủ nhân nằm dài trên giường luôn luôn ngáp dài mỏi mệt. Than ôi! Nguy ngập lắm thay”[9].
Những điều trên đây được nhiều nhà duy tân thời Nguyễn, như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Đặng Huy Trứ,…điều trần. Ở đây, Phan Bội CHâu không đề xuất cho triều đình mà chủ yếu nói chung cho cả nước. Chúng ta còn thấy thấp thoáng tư tưởng của Trần Quốc Tuấn Hưng Đạo Vương trong “Hịch tướng sĩ” trong đoạn văn trên của Phan Bội Châu; song Cụ Phan nói về trách nhiệm, nghĩa vụ của người dân với đất nước, quê hương, gia đình chứ không phải là mối quan hệ vua – tôi, chủ – tớ, như Trần Quốc Tuấn nêu trong bài hịch của mình.
Phân tích thái độ, vai trò của triều đình Huế, Phan Bội Châu cuối cùng cũng phải đề cập đến trách nhiệm của vua quan nhà Nguyễn trong việc làm mất nước ta. Chương thứ mười “Đầu đuôi mối quan hệ giữa nước ta với châu Âu” trong quyển “Việt Nam sử khảo” trình bày khá đầy đủ về quá trình Thiên chú giáo xâm nhập vào Việt Nam, đi đôi với quá trình thực dân phương Tây âm mưu và tiến hành xâm lược nước ta. Việc triều đình Nguyễn ngày càng lệ thuộc, bị ràng buộc vào thực dân đi đến chỗ mất chủ quyền độc lập và làm tay sai cho chúng được thể hiện ở cac hiệp ước được ký kết, như các hiệp ước 1862, 1883, 1884. Phan Bội Châu đã nêu rõ, triều đình nhà Nguyễn cứ trượt dần theo con đường thất bại chủ ngĩa, không tính gì đến dân, đến nước.  Cụ đã kết án việc làm mất nước của triều đình Huế là “do rất nhiều điều tệ, tội nhiều không kể hết, nhưng trong đó có bốn cái tội lớn:
- Một là ngoại giao hẹp hòi
- Hai là nội trị hủ bại
- Ba là dân trí bế tắc
- Bốn là vua tôi trên dưới tự tư tự lợi[10]
Vì vậy triều đình mới từ kháng cự yếu ớt chuyển dần sang nhượng bộ, đầu hàng, làm tay sai cho thực dân. Thái độ này khác hẳn tinh thần, ý chí chống ngoại xâm của nhân dân ngày càng mạnh mẽ.
Ở đây, một vấn đề được đặt ra là vì sao nhìn thấy sự hèn yếu, phản bội của triều đình phong kiến mà trong buổi đầu đấu tranh giành độc lập, Phan Bội Châu vẫn giương ngọn cờ “quân chủ lập hiến”, tôn phong Cường Để làm minh chủ. Có thể nhận thức rằng, Phan Bội Châu muốn tập hợp mọi lực lượng để đạt mục tiêu lớn nhất lúc bấy giờ là độc lập dân tộc. Con đường “quân chủ lập hiến” lúc bấy giờ còn có thể tập hợp được nhiều nhà yêu nước khi chưa xác định con đường cứu nước mới, hơn nũa cũng chưa hoàn toàn thoát khỏi tư tưởng “trung quân ái quốc”. Tuy nhiên, ở đây cũng cần nhấn mạnh rằng ngay từ thời phong trào Cần Vương, tư tưởng trung quân cũng không phải phục hồi chế độ phong kiến đã lỗi thời mà chỉ tôn phò một ông vua yêu nước mà thôi. Có lẽ lúc đầu nhà sĩ phu yêu nước Phan Bội Châu giương ngọn cờ “quân chủ lập hiến” chỉ là một “thủ đoạn”, sách lược trong đấu tranh cứu nước, giải phóng dân tộc, vì chẳng bao lâu sau Phan Bội Châu đã nhiệt liệt hoan nghênh và đi theo con đường “Cộng hòa” và trước khi bị bắt đưa về nước ít lâu, Cụ đã hướng về “Chủ nghĩa xã hội”.
Tìm hiểu quan điểm của Phan Bội Châu đối với trách nhiệm của vua quan nhà Nguyễn trong việc để nước ta rơi vào ách đô hộ của thực dân Pháp, chúng tôi mong muốn góp phần vào việc kiến giải một vấn đề lớn của lịch sử Việt Nam thời cận đại đang còn tranh cãi.




ß Khoa Lịch Sử – Trường ĐHSP Hà Nội.
[1] Phan Bội Châu  toàn tập, tập 2. Chương Thâu sưu tầm và biên soạn, NXB Thuận Hóa, Huế, 1990, tr. 103.
[2] Sđd, tr. 106
[3] Sđd, tr. 106 - 107
[4] Sđd, tr. 125
[5] Sđd, tr. 125 - 126
[6] Sđd, tr. 71
[7] Sđd, tr. 106
[8] Sđd, tr. 107
[9] Sđd, tr. 483
[10] Sđd, tr. 483