Cũng như các
triều đại phong kiến trước, dưới thời nhà Nguyễn, thuế là nguồn thu chủ yếu của
ngân quỹ quốc gia. Moi chi phí cho các hoạt động của nhà nước và các sinh hoạt
lương bổng của hệ thống vua quan triều đình đều dựa vào nguồn thu này. Sau khi
lên ngôi (1802), Gia Long tiếp tục thực hiện “Phép tô, dung” như các triều đại
trước. Ba sắc thuế chính của nhà Nguyễn đặt ra là: thuế điền thổ (thuế ruộng
đất), thuế đinh (thuế thân), thuế tạp dịch. Ngoài ra còn có một số sắc thuế
khác đánh vào các hoạt động công thương như thuế hầm mỏ, thuế cảng, thuế nguồn
đầm, thuế quan tân, thuế hiện vật đối với các hộ sản xuất thủ công, thuế thuốc
phiện, thuế thuyền bè, thuế rượu…
Về thuế điền
thổ, Nhà nước đánh thuế hầu hết các loại ruộng, đất (trừ đất công cộng, đất ban
thưởng cho gia đình quan lại, đất đình chùa và thờ tự). Ruộng đất phân chia làm
hai loại hình sở hữu: ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà nước và ruộng đất
công (làng, xã), tư (cá nhân). Triều đình đánh thuế ruộng công nặng hơn thuế
ruộng tư nên tầng lớp nông dân nghèo không có ruộng, nhất là những vùng đông
dân cư ở đồng bằng sông Hồng, sông Mã,
chịu thuế nặng.
Đối với ruộng
đất thuộc quyền sở hữu của nhà nước, nhà Nguyễn chia thành 4 loại: đồn điền,
quan điền – quan trại, ruộng đại nạp Nam Kỳ và ruộng ba tú Nam Kỳ. Ở mỗi triều
vua ruộng đất lại được chia thành nhiều đẳng hạng và áp dụng các mức thuế khác
nhau. Tô thuế ruộng đất thường nộp bằng hiện vật (đơn vị tính là học, thăng
hoặc bát thóc). Ví dụ ruộng quan điền thời Gia Long, thuế thu 100 thăng / mẫu;
thời Tự đức có nhiều mức từ 10 thăng đến 245 thăng / mẫu; ruộng đại nạp Nam Kỳ
hạng hộc, hạng 24 hộc, hạng 33 hộc[1].
Ruộng đất
công, tư lại được chia làm hai loại: ruộng (để cày cấy) và đất ( thổ để trồng
màu và cây lưu niên)
Đất cũng được
chia thành từng vùng và mức độ thuế đánh theo từng loại cây trồng. Hính thức
nộp thuế của từng loại đất trồng cây khác nhau: đượcthu bằng hiện vật hay bằng
tiền. Thời Gia Long, đất trồng mía thu 10 thăng/ mẫu, còn các loại đất khác nộp
bằng tiền, như đất trồng dừa có 3 mức thuế: 19 quan / 5 thửa, 2 quan / thửa và
2,5 quan /thửa[2].
Một bộ phận
thu nhập quan trọng của nhà nước, đồng thời là một thứ nghĩa vụ là thuế thân
(thuế đinh) chỉ đánh vào nội đinh (là những người dân chính thức của làng),
được hưởng những quyền lợi công dân, như được chia ruộng đất công, được tham
gia các chức vụ chính quyền ở xã hay phạm vi ngoài xã và nhiều quyền lợi khác.
Ngoại đinh (dân lậu hay ngụ cư) được miễn thuế thân, nhưng không được hưởng một
quyền lợi nào.
Cũng như thuế
ruộng đất, thuế thân cũng được chia theo vùng (khu vực địa lý). Thời Gia
Long, cả nước chia làm 3 vùng;
thời Tự Đức chia 5 vùng, ở mỗi vùng, áp dụng các mức thuế khác nhau. Nhà nước
dựa vào số dinh của làng xã để đánh thuế. Trong số đinh, nội đinh được sắp xếp
theo hạng khá tỉ mỉ (tráng hạng, quân hạng, dân hạng, lão tật hạng) với các mức
thuế khác nhau. Những hạng được miễn thuế là: người có chức sắc, con quan thời
Nguyễn, nhiêu ấm, nhiêu thân, quan chức, người đỗ đạt, binh sĩ, thợ thuyền.
Trong thời gian chống Pháp, triều đình có chính sách miễn, trừ thuế thân, tạp
dịch đối với thương binh, tùy theo mức độ thương tật. Số đinh mỗi năm tiểu tu
một lần và 5 năm đại tu một lần để điều chỉnh cho đúng với thực tế dân cư trong
xã. Thuế thân thu bằng tiền.
Để hạn chế số
dân theo đạo Gia tô, triều đình tăng thuế thân,quy định xã thôn nào dân chưa bỏ
hết đạo bị tăng thuế thân gấp rưỡi, xã thôn nào che dấu, chứa chấp Đạo trưởng,
tăng thuế gấp đôi. Ngoại đinh theo đạo bị buộc nộp thuế bằng nội đinh. Từ
8-1865, Nhà nước bắt đầu đánh thuế thân đối với người Minh hương hoặc người
Thanh (tức người Trung Quốc sang trú ngụ ở Việt Nam ).
Về thuế tạp
dịch (lao dịch) nhà nước không định số ngày huy động trong năm mà tùy theo yêu
cầu của công việc. Dân miền núi và xa trung tâm thường được miễn. Pháp luật nhà
Nguyễn cấm ngặt quan lại không được huy động nhân công cho việc riêng, hoặc khi
đang vụ mùa màng, nếu không được phép của triều đình. Những việc lớn huy động
nhân công theo lệnh của triều đình, chính quyền hàng tỉnh chỉ được huy động
nhân công cho việc nhỏ hoặc việc tu bổ. Số lượng nhân công huy động dựa trên số
nội đinh của mỗi xã. Khi đi lao dịch, lý trưởng hoặc chức dịch xã phải dẫn đi.
Mỗi nhân công được cấp một phương gạo/ 1 tháng (tương đượng 38 lít). Những
người có việc bận có thể mướn người đi thay. Thuế tạp dịch lúc đầu là bắt buộc
phải đi, về sau đổi lệ có thể nộp bằng tiền: mỗi năm 2 kỳ, mỗi kỳ 6 tiền. Đối
với các dân tộc ít người ở vùng thượng du có thể nộp bằng hiện vật, như mật
ong, sáp ong, trầm hương, ngà voi, sừng tê giác, hoặc bằng bạc nén.
Ngoài ra
người dân còn phải nộp các khoảng tạp dịch khác như tiền mâm (phụ thu theo đầu
người), tiền điệu, tiền cước mễ (thóc thu theo đầu người), tiền đầu lạt, tiền
thập vật (tiền chi vật), tiền khoán khố (giấy tờ gửi kho), tiền sai dư (sai phái),
tiền trước bạ, tiền dầu đèn, vv…
Nhà nước
không trực tiếp thu thuế của dân mà phân phối cho từng làng xã, rồi làng xã tự
phân bổ cho dân chúng. Hình thức này rất đáng chú ý vì “xã thôn tự nhiệm trước
quyền hành của nhà vua và của những đại diện của nhà vua như là một tiểu cộng
hòa khư khư giữ những quyền lợi để dánh đổi an ninh mà Hoàng đế đem lại…”[3]
Thuế đánh vào
các hoạt động công thương có nhiều loại, chủ yếu là:
- Thuế hầm
mỏ, nhà Nguyễn rất khuyến khích việc khai thác mỏ. Chủ mỏ chỉ cần xin phép và
nộp thuế bằng sản phẩm đó theo giá được định trước. Ví dụ: tháng 10-1858, nhà
Nguyễn cho phép Chu Triệu Kỳ (người Trung Quốc) khai thác mỏ vàng An Bảo ở Thái
Nguyên với mức thuế 6 lạng vàng/ năm, tháng 5 – 1867 triều đình bãi bỏ lệnh cấm
xuất cảng thiếc, cho chuyển thành lệ thu thuế xuất cảng thiếc với mức cứ 1000
cân nộp thuế 13 lạng bạc (tương đương 104 quan tiền/ 1000 cân). Do được triều
đình khuyến khích nên các mỏ vàng, bạc, chí, đồng, kẽm, thiếc, vv… đã được khái
thác khắp cả nước[4]. Riêng
Nhà nước quản lý 139 hầm mỏ các loại, trong đó có 29 mỏ vàng, 15 mỏ bạc, 9 mỏ
đồng.
Triều đình Tự
Đức (1883) thống kê được 147 mỏ, trong đó có 38 mỏ vàng, 18 mỏ bạc, 37 mỏ sắt,
10 mỏ kẽm, 3 mỏ chí, 1 mỏ thiếc, 22 mỏ diêm tiêu, 2 mỏ lưu huỳnh, 2 mỏ châu sa.
- Thuế các hộ
sản xuất thủ công, chế biến, thu lượm, từ tháng 11 – 1864, Nhà nước thu thuế
hiện vật đối với các hộ xã dân làm nghề khác, ngoài nghề nông. Những xã có sản
vật đặc biệt như trầm hương, quế, sâm, tôm, mực hoặc có nghề nghiệp truyền
thống như: làm giấy, dệt lụa, dệt sa, chiếu, sơn, nấu dầu thảo mộc, đục đẽo đá,
luyện sắt, đồng đỏ, đồng lá, vàng thếp, vải trắng v.v… thì nộp thuế biệt nạp,
tức thu lượm, làm ra những sản phẩm gì thì nộp thuế bằng sản phẩm ấy. Ví dụ:
làng La Khê phải nộp 5000 tấm sa/ năm; hai làng Yên Thế và Hồ Khẩu phải nộp
5000 tờ giấy/ người/ năm, làng trồng đay mỗi người nộp 3 kg vỏ đay v.v… Người
nộp thuế gọi là biệt tính, được miễn binh dịch, tạp dịch và được nộp thuế thân
bằng sản phẩm đặc biệt.
- Thuế thuốc
phiện, trong các triều đại trước, việc hút thuốc phiện bị cấm ngặt, nhưng từ
thàng 2 – 2865, Tự Đức bãi bỏ lệnh cấm hút thuộc phiện và bắt đầu đánh thuế
thuốc phiện, bằng hình thức cho lĩnh trưng nộp thuế trên phạm vi cả nước, và
thuế nộp của quan của thương nhân Trung Quốc (40 cân thuốc phiện nộp 1 cân)[5]
- Thuế cảng,
từ tháng giêng 1866, định lệ thu các tàu thuyền nước ngoài cập bến các cửa bể
để buôn bán, trước tiên ở Bắc Kỳ. Lúc đầu Nhà nước căn cứ vào kích thước và nơi
sản xuất của tàu để đánh thuế[6] từ
tháng 11 – 1866 Sở thuế quan, ở sông Cấm (Hải dương), đã có quy định về thu
thuế cảng.
- Thuế quan
tân, dánh vào hoạt động giao dịch thông thương qua các cửa ải, bến đò, khúc
sông, chợ búa…, được căn cứ vào giá trị hàng hóa, thu bằng tiền, hoặc nửa bằng
tiền, nửa bằng hiện vật.
- Thuế rượu,
từ tháng 8 – 1866 bắt đầu thu ở 3 tình Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên và cho phép
thương nhân Trung Quốc đứngra lĩnh chừng nộp thuế với mức 2500 quan/ 1 năm và
quy định mức thuế ty là 1/ 40 như thuế thuốc phiện (cứ bán cho Nhà nước 40 lít
phải nộp thuế 1 lít)[7].
Tháng 3 -1873, bắt đầu đánh thuế lò rượu ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, cứ lò lớn 40
quan tiền, lò nhỏ 30 quan.
- Thuế muối,
từ tháng 12 – 1867 triều đình bắt đâu đánh thuế muối xuất cảng ở hai cửa khẩu
Bình Định và Bình Thuận (Trung Kỳ) và đặt ty đánh thuế muối ở hai nơi đó. Loại
thuế này sau đó áp dụng cho cả Bắc Kỳ.
- Thuế môn
bài: tháng 11 – 1870 triều đình dự định đánh thuế môn bài đối với các thương
gia Trung Quốc nhưng về sau triều đình lại không thi hành.
- Thuế nguồn
đầm, áp dụng đối với những người sử dụng ao, hố, đấm, chắm (mặt nước) để đánh
cá hay nuôi trồng thủy sản. Thuế này thu bằng tiền.
Như vậy, thời
Nguyễn, do nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu nên thuế ruộng đất là chính, thuế
gián thu chưa phải là nguồn lợi lớn cho nhà nước.
Phương thức
thu thuế này còn mang tính cống nạp do địa phương thực hiện, vì vậy nhà nước
thất thu nhiều. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất làm cho nền
kinh tế - xã hội ta trì trệ, nguồn thu tài chính quốc gia bị kiệt quệ,làm cho
nhà nước phong kiến Nguyễn không đủ tiềm lực kinh tế để chống đỡ trước họa xâm
lăng của thực dân Pháp.
ß
Trường CĐSP Yên Bái
[1] Trương
Hữu Quýnh – Đỗ Bang: Tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nông dân dưới
triều Nguyễn, NXB Thuận Hóa, 1997
[2] Trương
Hữu Quýnh – Đỗ Bang: Tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nông dân dưới
triều Nguyễn, NXB Thuận Hóa, 1997
[4] Viện
nghiên cứu tài chính: Lịch sử tài chính, tập 1, NXB Tài chính, 1995.
[5] Dương
Kinh Quốc: Việt Nam
những sự kiện lịch sử (1858 – 1945), tập 1, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1991
[6] Dương
Kinh Quốc: Việt Nam
những sự kiện lịch sử (1858 – 1945), tập 1, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1991
[7] Dương
Kinh Quốc: Việt Nam
những sự kiện lịch sử (1858 – 1945), tập 1, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1991
No comments:
Post a Comment