Nông dân thiếu
ruộng đất canh tác. Đặc biệt thiên tai, mất mùa, đói kém lien mien. Từ 1802 đến
1883, trong 81 năm, theo sách “Đại Nam
thực kục”, chỉ tính riêng vùng đồng bằng châu thổ song Hồng đã có 23 năm có
bão, 50 năm có nạn lụt và 38 năm có vỡ đê lớn xảy ra. Trước tình hình trên các
vua quan triều Nguyễn buộc phải thi hành một số biện pháp tích cực, trong đó có
công tác thuỷ lợi, đi đôi với khai hoang, lấn biển, lập làng ấp ở Thái Bình.
Nhà Nguyễn đã biết kế thừa và thừa hưởng những thành quả và kinh nghiệm về công
tác thuỷ lợi ở các triều đại trước nên cũng thu đựơc không ít thành tựu, có ảnh
hưởng tích cực để phát triển nông nghiệp, nâng cao đời sống nông dân ở mức độ
nhất định. Tuy nhiên, chính sách thống trị của nhà Nguyễn nói chung lại có
những điểm lạc hậu, khắc nghiệt, nên không những không đáp ứng được các yêu cầu
mới của xã hội mà còn tạo ra những khó khăn phức tạp hơn những thời kỳ trước. Ở
đây có một điểm cần lưu ý rằng, quá trình lâu dài hang chục thế kỷ xây dựng,
phát triển hệ thống các công trình thuỷ lợi đã đem lại nhiều mối lợi cho con
người sinh sống ở vùng đồng bằng Bắc Bộ cũng như Thái Bình, nhưng mặt khác do
việc làm thi6ú quy hoạch, không đựơc tính toán khoa học nên thuỷ lợi kém hiệu
quả và đã làm mất cân bằng sinh thái ở vùng châu thổ này. Sự can thiệp của con
người vào tự nhiên có khi trái với quy luật khách quan đã để lại những hậu quả
nghiêm trọnh cho việc giải quyết vấn đề thuỷ lợi thế kỷ XIX ở đồng bằng Bắc Bộ,
trong đó có Thái Bình.
Như đã nói,
vua quan triều Nguyễn ít nhiều đã nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của
vấn đề thuỷ lợi, đồng thời những nguyên nhân về chính trị, kinh tế xã hội cũng
buộc nhà Nguỵễn phải chú trọng giải quyết vấn đề thuỷ lợi. Để thực hiện chính
sách trọng nông, các triều vua Nguyễn đã phải quan tâm và có những biện pháp
tích cực thúc đẩy công cuộc thuỷ lợi, khai hoang ở đồng bằng Bắc Bộ và địa hạt
tỉnh Thái Bình, trong đó có việc tổ chức lấy ý kiến của quan lại, dân chúng về
việc đắp đê ở ven các sông lớn. Triều đình cũng đặt các chức quan Đê chính,
Doanh điền sứ chuyên trách công việc xây dựng, quản lý và sử dụng đê, sông một
cách chi tiết, chặc chẽ, toàn diện hơn các triều đại trước. Nhà Nguyễn chia đê,
sông thành hai loại: công và tư để thuận tiện cho việc xây dựng, quản lý, khai
thác. Những công trình quan teong5 được nhà nước trợ cấp tiền gạo, công cụ,
nguyên vật liệu. Đến mùa mưa bão, lũ, triều đình thường cử quan đại thần về
kiểm tra, đôn đốc việc canh phòng cứu hộ các sông. Đồng thời cũng cử các quan
Doanh điền sứ có kinh nghiệm, cần mẫn như Nguyễn Công Trứ (thời Minh Mệnh),
Doãn Khuê (Tự Đức) chăm lo các công việc thủy lợi, khai hoang ở Thái Bình , Nam
Định, Ninh Bình.
Mặc khác chúng
tôi cũng nhận thấy triều Nguyễn trong những năm 1802-1883 cũng tỏ ra bất lực,
lúng túng trong việc xây dựng, chăm lo, bảo vệ đê điều và các công trình thủy
lợi trước những thiên tai thường xuyên và nghiêm trọng xảy ra. Triều đình có
lúc phải phân vân trước giải pháp về việc giải quyết nhiệm vụ trị thủy ở Bắc
Thành – nên đắp hay bỏ đê? Các đời vua triều Nguyễn (1802-1883) đã nhiều lần tổ
chức lấy ý kiến đóng góp của quan lại, dân chúng về những biện pháp làm thủy
lợi. Khi nhận xét về cách làm này, cứ thấy phải bàn đi bàn lại nhiều lần, nên
một số ý kiến đã nhấn mạnh về sự lúng túng, bất lực của triều Nguyễn trong việc
trị thủy. Nhưng xem xét ở khía cạnh khác thì việc huy động trí tuệ của đông đảo
quan lại, dân chúng để giải quyết công việc thủy lợi là một biện pháp đúng đắn
và cần thiết.
Trước tình
hình nguy ngập vế kinh tế của đất nước – sản xuất nông nghiệp giảm sút – nhà
Nguyễn cũng đề ra chính sách khẩn hoang,
được đẩy mạnh nhất vào thời Minh mệnh. Chính sách khẩn hoang quy định các
hình thức khác nhau của việc khai phá đất hoang hóa làm ruộng đất canh tác, nổi
bật nhất là hình thức đồn điền và doanh điền. Đồn điền được tổ chức chủ yếu ở phía Nam, còn doanh điền được tiến
hành nhiều ở phía Bắc. Nguyễn Công Trứ - một Doanh điền sứ - đã có công đóng
góp vào sự ra đới của chính sách doanh điền và tổ chức thực hiện có kết quả ở
vùng ninh Bình, Nam Định và Thái Bình. Trong việc khẩn hoang, Nguyễn Công Trứ
biết lợi dụng địa thế để đắp đê và mở rộng hình thức thủy nông một cách hợp lý,
khoa học. Với sức lao động bền bỉ của nông dân, việc khẩn hoang, làm thủy lợi ở
đồng bằng Bắc Bộ, cũng như cả nước, đạt một số kết quả.
Riêng ở Thái
Bình, cũng như ở đồng bằng bắc Bộ nói chung, để giải quyết vần đề thủy lợi,
nhân dân tiến hành đồng thời các biện pháp bồi đắp đê, đập, xây dựng kè cống
dưới đê, đê chống lũ, thủy triều, nước mặn khơi đào sông ngòi thoát lũ, chống
vỡ đê: tưới tiêu phục vụ nông nghiệp, giao thông vận tải…
Vào nửa đầu
thế kỷ XIX, ở Thái Bình có nhiều công trình đáng chú ý, Năm 1808, đắp một đoạn
đê mới hơn 70 trượng ở xã Đường Xâm, huyện Chân Định (Kiến Xương ngày nay). Năm
1810, khơi đào một đoạn sông nối sông Đinh Ngọ thuộc huyện Duyên Hà với sông
Hưng Na ở huyện Quỳnh Côi để chống úng và cũng có lợi cho việc tưới tiêu (sông
này được vua Gia Long chuẩn y cho đào từ năm 1805, nhân dân lại đắp một đoạn đê
mới ở huyện Chân Định.)[1]
Việc đào sông,
đắp đê, đập ở Thái Bình sôi nổi, rầm rộ nhất từ 1827 trở đi, đặc biệt từ năm
1828, công cuộc làm thủy lợi, khai hoang được triển khai mạnh mẽ, có kết quả ở
vùng bãi biển Tiền Châu (Cồn Tiên). Các công trình nổi tiếng này do Doanh điền
sứ Nguyễn Công Trứ khởi xướng và trưc tiếp phụ trách.
Dựa vào nguồn
tài chính của Nhà nước cấp phát ban đầu, Nguyễn Công Trứ đã chiêu mộ và tổ chức
dân nghèo xạy dựng các công trình thủy lợi, tiến hành khai khẩn đất bãi biển
Tiền Châu. Trước hết ông tổ chức nhân dân đắp nhiều con đê ngăn mặn, chống bão
biển, thủy triều. Đê sông Lân là con đê quan trọng đã được tập trung nhiều lực
lượng sửa đắp (đê có chiều dài 3m, mặt đê 4m, chân đê rộng 8m). Đê sông Lân
cùng với các đê sông Long Hầu, sông Cá, sông Cổ Ngư…được xây dựng tạo thành một
hệ thống đê biển khá vững chắc. Để có được những con đê này, nhân dân địa
phương đã phải nạo vét hết lớp đất sa cát, bùn nhão ở nơi là chân đê, rồi dùng
thuyền chuyển đất sét hoặc đất thịt từ xa đến làm móng đê. Những nơi xung yếu
phải đắp hai đê (đê trong và đê ngoài) để phòng đê vỡ.
Đi đôi với
việc đắp đê ngăn mặn, nhân dân còn xây dựng hệ thống sông ngòi, mương, lạch,
cống, đập để dẫn nước ngọt vào đồng ruộng, thau chua rữa mặn, cải tạo đất và
tưới tiêu cho cây trồng.
Hệ thống thủy
lợi ở đây được xây dựng theo một quy hoạch hợp lý, có hiệu quả của Nguyễn Công
Trứ: kết hợp quy hoạch thủy lợi với quy hoạch lãnh thổ. Cứ 10 đạc (600m), chiều
ngang của một lý hoặc 6 đạc (360m), chiều ngang của một ấp lại có một con sông
đào thẳng tắp. Từ con sông đào này lại đào ra hai bên những con sông nhỏ, mương
lạch để đưa nước ngọt, phù sa từ sông Long Hầu về các xứ đồng, làng ấp. Hệ
thống thủy lợi này đã giúp người nông dân chủ động trong việc tưới tiêu đồng
ruộng và đi lại bằng thuyền nhỏ rất thuận tiện. Một bài ca dao lưu truyền ở địa
phương đã nói tới việc tưới tiêu này, biết khai thác dòng sông để phục vụ lợi
ích một cách hợp lý, tuân theo quy luật của tự nhiên:
“Nước
sa chảy xuống Long Hầu,
Các
già bắc một cái cầu làm duyên,
Nước
nguồn chảy đổ hai bên,
Chảy
xuống Nguyệt Lũ, chảy lên chợ Cầu.
Cạn
thời lấy nước Long Hầu,
Lớn
thời tháo nước ra đầu Bạch Long”
Sức lao động
sáng tạo to lớn của nông dân cùng với tài tổ chức chỉ đạo của Nguyễn Công Trứ
đã giải quyết tốt vấn đề thủy lợi, đem lại kết quả to lớn. Một huyện mới, huyện
Tiền Hải ra đời, với diện tích 18.900 mẫu và 2.300 suất đinh, 7 tổng, 4 làng,
17 ấp, 20 trại, 10 giáp.
Hệ thống thủy
lợi, khai hoang, lấn biển lập làng, ấp vùng bãi biển Tiền Châu luôn được đánh
giá cao vì tính khoa học và hiệu quả phục vụ của nó đã biến vùng bãi cát sa
bồi, đầm lầy hoang vu thành đồng ruộng tốt tươi, làng ấp đông vui, trù phú[2]
Đến cuối năm
1829, trấn Nam Định có 12 huyện trong đó có 8 huyện thuộc Thái Bình hiện nay
(Hưng, Quan, Đông Quan và Thụy Anh) đã đắp đê các loại dài 87.804 trượng
(khoảng 349,7 km), với 24.665 trượng đê công, 9.804 trượng đê ngắn, 42.972 trượng
dê tư[3]
Năm 1833, nhân
dân lại đào một đoạn sông mới từ Thanh Trường, huyện Thanh Trì đến làng Đường
Lâm huyện Chân Định và khơi đào ba đoạn khác dài 5.000 trượng (khoảng 20km).
Công trình này, với khối lượng đào đắp rất lớn, phải làm trong ba mươi năm mới
hoàn thành. Năm 1834, nhiều nhánh sông mới được đào để thoát lũ, chống úng ở
các huyện Hưng Nhân, Thần Khê, Duyên Hà, Thư Trì, Quỳnh Côi. Nhân dân các huyện
trên đều hưởng ứng tích cực với tinh thần “giàu xuất của, nghèo xuất công” để
đào sông. Điều này một lần nữa chứng tỏ sức mạnh đoàn kết của nhân dân Thái
Bình không chỉ trong đấu tranh xã hội mà còn cả trong lao động sản xuất. Vì lợi
ích chung, mọi người dù giàu, nghèo theo khả năng của mình đều vui vẻ đóng góp
vào công việc “ích nước, lợi nhà”. Một bài học quý giá về huy động sức dân.
Năm 1837, đắp
đê mới ở huyện Hưng Nhân từ Hà Lão đến Nhật Tảo dài 570 trượng, mặt rộng 1
trượng 2 thước, chân rộng 4 trượng, cao 1 trượng[4]. Từ
giữa thế kỷ XIX trở đi , thời Tự Đức (1858-1883), thực dân Pháp từng bước đánh
chiếm nước ta. Trong hoàn cảnh đó, tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của đất
nước nói chung, ở Thái Bình nói riêng trở nên sa sút nghiêm trọng. Mặc dù vậy,
công việc làm thủy lợi vẫn được liên tục tiến hành với sức lực của nhân dân, mà
không chờ việc tổ chức, chỉ đạo thực hiện của triều đình.
Năm 1854, nhân
dân sửa đắp, tôn cao đê huyện Hưng Nhân, Duyên HÀ. Năm 1855, xây cống có cánh ở
cửa sông Thái Thường, An Lộng và Tịnh Xuyên huyện Hưng Nhân. Năm 1857, việc tu
sửa bồi đắp đê dược tiến hành ở huyện Hưng Nhân, đê dài 1.766 trượng (hơn 7km),
sử dụng 10.735 công, 5.920 phương gạo. Năm đó, đê mới ở xã Bổng Điền, huyện Thư
Trì được đắp, đê dài 168 trượng (hơn 670m). Năm 1870, khơi vét, mở rộng lòng
sông và đắp đê ở huyện Liêm Giang, huyện Kiến Xương (do dân phu các huyện Tiền
hải, Vũ Tiên và Kiến Xương cùng đào đắp). Năm 1872, sửa đắp đê ở hai huyện Tiên
Hưng và Hưng Nhân. Năm 1873, sửa đắp đê ở hai huyện Thư Trì và Duyên Hà, đắp đê
sông Long Giang, Ngư Giang ở huyện Tiền Hải để ngăn mặn. Năm 1876, lấp cửa sông
Ngư Dũng và khai cửa cống Long Hầu, làm hai cửa cống ở ba tổng Cổ Quán, Cao Mỗ
và Phú Khê, huyện Hưng Nhân để “theo thời chứa nước, tháo nước cho lợi việc làm
ruộng”[5]
Trong thời kỳ
chế độ phong kiến đã suy yếu, không còn đủ năng lực chăm lo sản xuất, không đủ
sức tổ chứa cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước, thì việc đắp đê làm thủy lợi của
nhân dân Thái Bình, cũng như ở nhiều địa phương khác cũng chứng tỏ sức sống,
tinh thần anh dũng, lao động sáng tạo của nhân dân.
Như vậy, trải
qua các thời kỳ lịch sử. trong những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau, nhưng nhìn
chung công cuộc thủy lợi ở Thái Bình cũng như ở các nơi khác trên đất nước ta,
vẫn được tiến hành liên tục, bền bỉ, ngày càng có nhiều thành tựu to lớn. Nhất
là vào nửa thế kỷ XIX, thủy lợi ở Thái Bình được xây dựng, phát triển khá mạnh
mẽ, rộng khắp và có tiến bộ nhiều mặt.
Chưa kể đến
việc giải quyết vấn đề thủy lợi nhỏ ở làng xã, chỉ căn cứ những sử liệu ghi về
các công trình thủy lợi lớn do Nhà nước tổ chức xây dựng, như đã trình bày ở
trên, chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy trong hơn 80 năm đầu tếh kỷ XIX, thành
quả về thủy lợi trên vùng đất Thái Bình rất nhiều và to lớn. Đó là các công
trình thủy lợi ở ven sông lớn, trong nội đồng và ven biển; tất cả đều được quan
tâm xây dựng, củng cố, tu sửa.
Vào thời điểm
này cũng có những công trình quy mô liên tổng, liên huyện được tổ chức xây dựng
như công trình khơi đào, đắp đê sông Liên Giang (1870) của các huyện Kiến
Xương, Tiền hải, Vũ Tiên. Công trình đắp đê của các huyện Tiên Hưng, Hưng Nhân
(1872) và Thư Trì, Duyên Hà (1873)…Cho đến trước ngày thực dân Pháp đánh chiếm
Thái Bình (1883), đê điều, cống đập, sông ngòi, kênh mương ở Thái Bình đã được
xây dựng, phát triển thành một hệ thống rộng lớn trên phạm vi toàn tỉnh.
Về biện pháp
kỹ thuật làm thủy lợi, nhân dân Thái Bình lúc này cũng đã có nhiều tiến bộ rõ
rệt. Họ biết kết hợp giữa việc đắp đê, xây dựng cống đập với việc khơi, đào
sông thoát lũ, chống vỡ đê, giải quyết việc tưới, tiêu nước phục vụ sản xuất
nông nghiệp; lợi dụng thủy triều, tiết kiệm công sức lao động cho nông dân
trong việc tưới, tiêu có thể biến ruộng một vụ thành ruộng hai vụ…
Nhận xét về
các công trình thủy lợi Thái Bình có trước khi người Pháp tới, P. Pasquier đã
chứng minh rằng những điều kiện địa lý tự nhiên đã “làm trỗi dậy trong đầu óc
người dân Thái Bình ý thức đấu tranh kiên trì và liên tục cần thiết để thúc đẩy
công cuộc cải tạo thiên nhiên”. Những công trình thủy lợi của Thái Bình là “
những công trình mạnh dạn”. Nhờ các công trình đó mà người dân Thái Bình “có
khả năng mở rộng không ngừng phạm vị hoạt động nông nghiệp của họ bằng cách
buộc đất đai phải nổi lên và biển cả phải rút lui”[6].
Tuy vậy, cũng
như ở đồng bằng Bắc Bộ, do điều kiện kinh tế, chính trị, trình độ khoa học kỹ
thuật, có lúc chi phối hệ thống đê điều, thủy nông có ở Thái Bình trước 1883,
đã bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém. Chúng được xây dựng và phát triển thiếu một
quy hoạch thống nhất, đồng bộ. Nguyên vật liệu xây dựng các công trình chủ yếu
bằng vôi, cát, gạch, đá, gỗ lim, tre, chưa biết sử dụng những nguyên liệu xây
dựng có chất kết dính, rắn chắc (xi măng, sắt, thép) để có thể trụ vững trước
sự tàn phá dữ dội củ khí hậu và thiên tai. Khả năng tưới tiêu, chống hạn, úng
của các công trình chỉ phục vụ trong từng vùng đất nhỏ hẹp. Đê, kè, cống, đập
dễ bị sạt, lỡ. Theo “Đai Nam thực lục”
vào đầu thế kỷ XIX, ở Thái Bình có hai lần vỡ đê lớn: 1828 vỡ đê Thanh Nga
(Hưng Nhân; 1847 vỡ đê Mỹ Lộc (Thư Trì). Thời Tự Đức (1848-1883) có nhiều lần
vỡ đê lớn: 1856 vỡ đê Phú Chữ (Thư Trì); 1857 vỡ đê Hà Lão (Hưng Nhân) và đê
Phú Chữ (Thư Trì); 1872 vỡ đê huyện Duyên Hà… Những thiên tai dồn dập như vậy
đã dẫn đến cảnh mất mùa, chết đói diễn ra nhiều nơi ở Thái Bình.
Một vài tài
liệu viết về mặt hạn chế của các công trình thủy lợi Thái Bình trước 1883 như
sau: “Đã từ lâu trước khi người Pháp sang, nhân dân trong tỉnh đã hiểu rõ lợi
ích của việt sử dụng hệ thống sông ngòi chằng chịt mà thiên nhiên đã dành cho
họ. Với bàn tay của mình, họ dã đào thêm một số kênh. Thông thường những con
kênh này bị vùi lấp ít lâu sau khi đào. Nhưng nhìn chung họ không có chương
trình chính xác, không có kế hoạch nhất quán trong việc đồng án, mà chỉ bằng
lòng sử dụng nước sẵn có, tùy theo sức mình có thể làm được.
Vì vậy, nhiều
diện tích rộng lớn thiếu nước để làm vụ tháng 5, rất nhiều vùng trũng không làm
được vụ tháng 10. Vì tiêu úng quá kém, còn lại là vô số đất đai vùng giữa tỉnh
khô cứng làm hai vụ tháng 5 và tháng 10 bấp bênh”[7].
Một đôi nét về
thủy lợi Thái Bình thời Nguyễn cho phép chúng tôi rút ra kết luận rằng: các vua
đầu thời Nguyện đã quan tâm đến công tác thủy lợi để phát triển nông nghiệp,
nhằm giải quyết những khó khăn về kinh tế, ổn định tình hình xã hội, chính trị.
Công sức là do nhân dân song kế hoạch tổ chức, chỉ huy có phần đóng góp không
nhỏ của vua quan. Tuy nhiên, những chính sách của nhà Nguyễn chứa đựng nhiều
mâu thuẫn, đã hạn chế nhiều kết quả công tác thủy lợi. Ruộng đất không được
khai hoang phần lớn rơi vào tay địa chủ, phong kiến; nông dân vẫn thiếu ruộng
cày, ách thống trị, áp bức với tô, thuế, lao dịch vẫn đè nặng trên lưng người
nông dân.
ß
Khoa Lịch sư – Trường ĐHSP Hà Nội
[2] Bùi Quý
Lộ, Ngọc Yên: Cuộc khẩn hoang thành lập huyện Tiền Hải, 1828, BCH Đảng bộ huyện
Tiền Hải, 1988, tr. 63-64
[4] Sđd, tập
19, tr.255
[5] Sđd, tập
35, tr.10
[6]
Pasquier. P. Tỉnh Thái Bình, trong quyển “Những tỉnh Bắc Kỳ”, trích tạp chí
“Đông Dương”, 6 tháng đầu năm 1904. Bản dịch tiếng Việt, lưu ở thư viện Thái
Bình, ký hiệu ĐCV 30-32
[7] Tỉnh
Thái Bình. Ghi chú của Công sứ tỉnh. Bản dịch tiếng Việt, lưu tại thư viện Thái
Bình, ký hiệu ĐCV 230-233.
Theo "Lịch sử nhà Nguyễn một cách tiếp cận mới".
No comments:
Post a Comment