Friday, April 22, 2016

THUỶ LỢI THÁI BÌNH THỜI NHÀ NGUYỄN (TRƯỚC NĂM 1883)

TS. Nguyễn Văn Amß


 Đầu thế kỷ XIX, vương triều Nguyễn vừa mới xác lập đã phải đứng trước những khó khăn, yêu cầu bức bách. Những cuộc chiến tranh lien mien từ mấy thế kỷ trước đã tàn phá nặng nề nền kinh tế, chính trị, xã hội đất nước. Nền kinh tế nông nghiệp đình đốn, kém phát triển. Công tác thuỷ lợi không được chú trọng. Trong khi dân số ngày càng đông them, ruộng đất của nông dân bị địa chủ cướp đoạt ngày càng nhiều.
Nông dân thiếu ruộng đất canh tác. Đặc biệt thiên tai, mất mùa, đói kém lien mien. Từ 1802 đến 1883, trong 81 năm, theo sách “Đại Nam thực kục”, chỉ tính riêng vùng đồng bằng châu thổ song Hồng đã có 23 năm có bão, 50 năm có nạn lụt và 38 năm có vỡ đê lớn xảy ra. Trước tình hình trên các vua quan triều Nguyễn buộc phải thi hành một số biện pháp tích cực, trong đó có công tác thuỷ lợi, đi đôi với khai hoang, lấn biển, lập làng ấp ở Thái Bình. Nhà Nguyễn đã biết kế thừa và thừa hưởng những thành quả và kinh nghiệm về công tác thuỷ lợi ở các triều đại trước nên cũng thu đựơc không ít thành tựu, có ảnh hưởng tích cực để phát triển nông nghiệp, nâng cao đời sống nông dân ở mức độ nhất định. Tuy nhiên, chính sách thống trị của nhà Nguyễn nói chung lại có những điểm lạc hậu, khắc nghiệt, nên không những không đáp ứng được các yêu cầu mới của xã hội mà còn tạo ra những khó khăn phức tạp hơn những thời kỳ trước. Ở đây có một điểm cần lưu ý rằng, quá trình lâu dài hang chục thế kỷ xây dựng, phát triển hệ thống các công trình thuỷ lợi đã đem lại nhiều mối lợi cho con người sinh sống ở vùng đồng bằng Bắc Bộ cũng như Thái Bình, nhưng mặt khác do việc làm thi6ú quy hoạch, không đựơc tính toán khoa học nên thuỷ lợi kém hiệu quả và đã làm mất cân bằng sinh thái ở vùng châu thổ này. Sự can thiệp của con người vào tự nhiên có khi trái với quy luật khách quan đã để lại những hậu quả nghiêm trọnh cho việc giải quyết vấn đề thuỷ lợi thế kỷ XIX ở đồng bằng Bắc Bộ, trong đó có Thái Bình.
Như đã nói, vua quan triều Nguyễn ít nhiều đã nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của vấn đề thuỷ lợi, đồng thời những nguyên nhân về chính trị, kinh tế xã hội cũng buộc nhà Nguỵễn phải chú trọng giải quyết vấn đề thuỷ lợi. Để thực hiện chính sách trọng nông, các triều vua Nguyễn đã phải quan tâm và có những biện pháp tích cực thúc đẩy công cuộc thuỷ lợi, khai hoang ở đồng bằng Bắc Bộ và địa hạt tỉnh Thái Bình, trong đó có việc tổ chức lấy ý kiến của quan lại, dân chúng về việc đắp đê ở ven các sông lớn. Triều đình cũng đặt các chức quan Đê chính, Doanh điền sứ chuyên trách công việc xây dựng, quản lý và sử dụng đê, sông một cách chi tiết, chặc chẽ, toàn diện hơn các triều đại trước. Nhà Nguyễn chia đê, sông thành hai loại: công và tư để thuận tiện cho việc xây dựng, quản lý, khai thác. Những công trình quan teong5 được nhà nước trợ cấp tiền gạo, công cụ, nguyên vật liệu. Đến mùa mưa bão, lũ, triều đình thường cử quan đại thần về kiểm tra, đôn đốc việc canh phòng cứu hộ các sông. Đồng thời cũng cử các quan Doanh điền sứ có kinh nghiệm, cần mẫn như Nguyễn Công Trứ (thời Minh Mệnh), Doãn Khuê (Tự Đức) chăm lo các công việc thủy lợi, khai hoang ở Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình.
Mặc khác chúng tôi cũng nhận thấy triều Nguyễn trong những năm 1802-1883 cũng tỏ ra bất lực, lúng túng trong việc xây dựng, chăm lo, bảo vệ đê điều và các công trình thủy lợi trước những thiên tai thường xuyên và nghiêm trọng xảy ra. Triều đình có lúc phải phân vân trước giải pháp về việc giải quyết nhiệm vụ trị thủy ở Bắc Thành – nên đắp hay bỏ đê? Các đời vua triều Nguyễn (1802-1883) đã nhiều lần tổ chức lấy ý kiến đóng góp của quan lại, dân chúng về những biện pháp làm thủy lợi. Khi nhận xét về cách làm này, cứ thấy phải bàn đi bàn lại nhiều lần, nên một số ý kiến đã nhấn mạnh về sự lúng túng, bất lực của triều Nguyễn trong việc trị thủy. Nhưng xem xét ở khía cạnh khác thì việc huy động trí tuệ của đông đảo quan lại, dân chúng để giải quyết công việc thủy lợi là một biện pháp đúng đắn và cần thiết.
Trước tình hình nguy ngập vế kinh tế của đất nước – sản xuất nông nghiệp giảm sút – nhà Nguyễn cũng đề ra chính sách khẩn hoang, được đẩy mạnh nhất vào thời Minh mệnh. Chính sách khẩn hoang quy định các hình thức khác nhau của việc khai phá đất hoang hóa làm ruộng đất canh tác, nổi bật nhất là hình thức đồn điền và doanh điền. Đồn điền được tổ chức chủ yếu ở phía Nam, còn doanh điền được tiến hành nhiều ở phía Bắc. Nguyễn Công Trứ - một Doanh điền sứ - đã có công đóng góp vào sự ra đới của chính sách doanh điền và tổ chức thực hiện có kết quả ở vùng ninh Bình, Nam Định và Thái Bình. Trong việc khẩn hoang, Nguyễn Công Trứ biết lợi dụng địa thế để đắp đê và mở rộng hình thức thủy nông một cách hợp lý, khoa học. Với sức lao động bền bỉ của nông dân, việc khẩn hoang, làm thủy lợi ở đồng bằng Bắc Bộ, cũng như cả nước, đạt một số kết quả.
Riêng ở Thái Bình, cũng như ở đồng bằng bắc Bộ nói chung, để giải quyết vần đề thủy lợi, nhân dân tiến hành đồng thời các biện pháp bồi đắp đê, đập, xây dựng kè cống dưới đê, đê chống lũ, thủy triều, nước mặn khơi đào sông ngòi thoát lũ, chống vỡ đê: tưới tiêu phục vụ nông nghiệp, giao thông vận tải…
Vào nửa đầu thế kỷ XIX, ở Thái Bình có nhiều công trình đáng chú ý, Năm 1808, đắp một đoạn đê mới hơn 70 trượng ở xã Đường Xâm, huyện Chân Định (Kiến Xương ngày nay). Năm 1810, khơi đào một đoạn sông nối sông Đinh Ngọ thuộc huyện Duyên Hà với sông Hưng Na ở huyện Quỳnh Côi để chống úng và cũng có lợi cho việc tưới tiêu (sông này được vua Gia Long chuẩn y cho đào từ năm 1805, nhân dân lại đắp một đoạn đê mới ở huyện Chân Định.)[1]
Việc đào sông, đắp đê, đập ở Thái Bình sôi nổi, rầm rộ nhất từ 1827 trở đi, đặc biệt từ năm 1828, công cuộc làm thủy lợi, khai hoang được triển khai mạnh mẽ, có kết quả ở vùng bãi biển Tiền Châu (Cồn Tiên). Các công trình nổi tiếng này do Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ khởi xướng và trưc tiếp phụ trách.
Dựa vào nguồn tài chính của Nhà nước cấp phát ban đầu, Nguyễn Công Trứ đã chiêu mộ và tổ chức dân nghèo xạy dựng các công trình thủy lợi, tiến hành khai khẩn đất bãi biển Tiền Châu. Trước hết ông tổ chức nhân dân đắp nhiều con đê ngăn mặn, chống bão biển, thủy triều. Đê sông Lân là con đê quan trọng đã được tập trung nhiều lực lượng sửa đắp (đê có chiều dài 3m, mặt đê 4m, chân đê rộng 8m). Đê sông Lân cùng với các đê sông Long Hầu, sông Cá, sông Cổ Ngư…được xây dựng tạo thành một hệ thống đê biển khá vững chắc. Để có được những con đê này, nhân dân địa phương đã phải nạo vét hết lớp đất sa cát, bùn nhão ở nơi là chân đê, rồi dùng thuyền chuyển đất sét hoặc đất thịt từ xa đến làm móng đê. Những nơi xung yếu phải đắp hai đê (đê trong và đê ngoài) để phòng đê vỡ.
Đi đôi với việc đắp đê ngăn mặn, nhân dân còn xây dựng hệ thống sông ngòi, mương, lạch, cống, đập để dẫn nước ngọt vào đồng ruộng, thau chua rữa mặn, cải tạo đất và tưới tiêu cho cây trồng.
Hệ thống thủy lợi ở đây được xây dựng theo một quy hoạch hợp lý, có hiệu quả của Nguyễn Công Trứ: kết hợp quy hoạch thủy lợi với quy hoạch lãnh thổ. Cứ 10 đạc (600m), chiều ngang của một lý hoặc 6 đạc (360m), chiều ngang của một ấp lại có một con sông đào thẳng tắp. Từ con sông đào này lại đào ra hai bên những con sông nhỏ, mương lạch để đưa nước ngọt, phù sa từ sông Long Hầu về các xứ đồng, làng ấp. Hệ thống thủy lợi này đã giúp người nông dân chủ động trong việc tưới tiêu đồng ruộng và đi lại bằng thuyền nhỏ rất thuận tiện. Một bài ca dao lưu truyền ở địa phương đã nói tới việc tưới tiêu này, biết khai thác dòng sông để phục vụ lợi ích một cách hợp lý, tuân theo quy luật của tự nhiên:
            “Nước sa chảy xuống Long Hầu,
            Các già bắc một cái cầu làm duyên,  
            Nước nguồn chảy đổ hai bên,
            Chảy xuống Nguyệt Lũ, chảy lên chợ Cầu.
            Cạn thời lấy nước Long Hầu,            
            Lớn thời tháo nước ra đầu Bạch Long”
Sức lao động sáng tạo to lớn của nông dân cùng với tài tổ chức chỉ đạo của Nguyễn Công Trứ đã giải quyết tốt vấn đề thủy lợi, đem lại kết quả to lớn. Một huyện mới, huyện Tiền Hải ra đời, với diện tích 18.900 mẫu và 2.300 suất đinh, 7 tổng, 4 làng, 17 ấp, 20 trại, 10 giáp.
Hệ thống thủy lợi, khai hoang, lấn biển lập làng, ấp vùng bãi biển Tiền Châu luôn được đánh giá cao vì tính khoa học và hiệu quả phục vụ của nó đã biến vùng bãi cát sa bồi, đầm lầy hoang vu thành đồng ruộng tốt tươi, làng ấp đông vui, trù phú[2]
Đến cuối năm 1829, trấn Nam Định có 12 huyện trong đó có 8 huyện thuộc Thái Bình hiện nay (Hưng, Quan, Đông Quan và Thụy Anh) đã đắp đê các loại dài 87.804 trượng (khoảng 349,7 km), với 24.665 trượng đê công, 9.804 trượng đê ngắn, 42.972 trượng dê tư[3]
Năm 1833, nhân dân lại đào một đoạn sông mới từ Thanh Trường, huyện Thanh Trì đến làng Đường Lâm huyện Chân Định và khơi đào ba đoạn khác dài 5.000 trượng (khoảng 20km). Công trình này, với khối lượng đào đắp rất lớn, phải làm trong ba mươi năm mới hoàn thành. Năm 1834, nhiều nhánh sông mới được đào để thoát lũ, chống úng ở các huyện Hưng Nhân, Thần Khê, Duyên Hà, Thư Trì, Quỳnh Côi. Nhân dân các huyện trên đều hưởng ứng tích cực với tinh thần “giàu xuất của, nghèo xuất công” để đào sông. Điều này một lần nữa chứng tỏ sức mạnh đoàn kết của nhân dân Thái Bình không chỉ trong đấu tranh xã hội mà còn cả trong lao động sản xuất. Vì lợi ích chung, mọi người dù giàu, nghèo theo khả năng của mình đều vui vẻ đóng góp vào công việc “ích nước, lợi nhà”. Một bài học quý giá về huy động sức dân.
Năm 1837, đắp đê mới ở huyện Hưng Nhân từ Hà Lão đến Nhật Tảo dài 570 trượng, mặt rộng 1 trượng 2 thước, chân rộng 4 trượng, cao 1 trượng[4]. Từ giữa thế kỷ XIX trở đi , thời Tự Đức (1858-1883), thực dân Pháp từng bước đánh chiếm nước ta. Trong hoàn cảnh đó, tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước nói chung, ở Thái Bình nói riêng trở nên sa sút nghiêm trọng. Mặc dù vậy, công việc làm thủy lợi vẫn được liên tục tiến hành với sức lực của nhân dân, mà không chờ việc tổ chức, chỉ đạo thực hiện của triều đình.
Năm 1854, nhân dân sửa đắp, tôn cao đê huyện Hưng Nhân, Duyên HÀ. Năm 1855, xây cống có cánh ở cửa sông Thái Thường, An Lộng và Tịnh Xuyên huyện Hưng Nhân. Năm 1857, việc tu sửa bồi đắp đê dược tiến hành ở huyện Hưng Nhân, đê dài 1.766 trượng (hơn 7km), sử dụng 10.735 công, 5.920 phương gạo. Năm đó, đê mới ở xã Bổng Điền, huyện Thư Trì được đắp, đê dài 168 trượng (hơn 670m). Năm 1870, khơi vét, mở rộng lòng sông và đắp đê ở huyện Liêm Giang, huyện Kiến Xương (do dân phu các huyện Tiền hải, Vũ Tiên và Kiến Xương cùng đào đắp). Năm 1872, sửa đắp đê ở hai huyện Tiên Hưng và Hưng Nhân. Năm 1873, sửa đắp đê ở hai huyện Thư Trì và Duyên Hà, đắp đê sông Long Giang, Ngư Giang ở huyện Tiền Hải để ngăn mặn. Năm 1876, lấp cửa sông Ngư Dũng và khai cửa cống Long Hầu, làm hai cửa cống ở ba tổng Cổ Quán, Cao Mỗ và Phú Khê, huyện Hưng Nhân để “theo thời chứa nước, tháo nước cho lợi việc làm ruộng”[5]
Trong thời kỳ chế độ phong kiến đã suy yếu, không còn đủ năng lực chăm lo sản xuất, không đủ sức tổ chứa cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước, thì việc đắp đê làm thủy lợi của nhân dân Thái Bình, cũng như ở nhiều địa phương khác cũng chứng tỏ sức sống, tinh thần anh dũng, lao động sáng tạo của nhân dân.
Như vậy, trải qua các thời kỳ lịch sử. trong những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau, nhưng nhìn chung công cuộc thủy lợi ở Thái Bình cũng như ở các nơi khác trên đất nước ta, vẫn được tiến hành liên tục, bền bỉ, ngày càng có nhiều thành tựu to lớn. Nhất là vào nửa thế kỷ XIX, thủy lợi ở Thái Bình được xây dựng, phát triển khá mạnh mẽ, rộng khắp và có tiến bộ nhiều mặt.
Chưa kể đến việc giải quyết vấn đề thủy lợi nhỏ ở làng xã, chỉ căn cứ những sử liệu ghi về các công trình thủy lợi lớn do Nhà nước tổ chức xây dựng, như đã trình bày ở trên, chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy trong hơn 80 năm đầu tếh kỷ XIX, thành quả về thủy lợi trên vùng đất Thái Bình rất nhiều và to lớn. Đó là các công trình thủy lợi ở ven sông lớn, trong nội đồng và ven biển; tất cả đều được quan tâm xây dựng, củng cố, tu sửa.
Vào thời điểm này cũng có những công trình quy mô liên tổng, liên huyện được tổ chức xây dựng như công trình khơi đào, đắp đê sông Liên Giang (1870) của các huyện Kiến Xương, Tiền hải, Vũ Tiên. Công trình đắp đê của các huyện Tiên Hưng, Hưng Nhân (1872) và Thư Trì, Duyên Hà (1873)…Cho đến trước ngày thực dân Pháp đánh chiếm Thái Bình (1883), đê điều, cống đập, sông ngòi, kênh mương ở Thái Bình đã được xây dựng, phát triển thành một hệ thống rộng lớn trên phạm vi toàn tỉnh.
Về biện pháp kỹ thuật làm thủy lợi, nhân dân Thái Bình lúc này cũng đã có nhiều tiến bộ rõ rệt. Họ biết kết hợp giữa việc đắp đê, xây dựng cống đập với việc khơi, đào sông thoát lũ, chống vỡ đê, giải quyết việc tưới, tiêu nước phục vụ sản xuất nông nghiệp; lợi dụng thủy triều, tiết kiệm công sức lao động cho nông dân trong việc tưới, tiêu có thể biến ruộng một vụ thành ruộng hai vụ…
Nhận xét về các công trình thủy lợi Thái Bình có trước khi người Pháp tới, P. Pasquier đã chứng minh rằng những điều kiện địa lý tự nhiên đã “làm trỗi dậy trong đầu óc người dân Thái Bình ý thức đấu tranh kiên trì và liên tục cần thiết để thúc đẩy công cuộc cải tạo thiên nhiên”. Những công trình thủy lợi của Thái Bình là “ những công trình mạnh dạn”. Nhờ các công trình đó mà người dân Thái Bình “có khả năng mở rộng không ngừng phạm vị hoạt động nông nghiệp của họ bằng cách buộc đất đai phải nổi lên và biển cả phải rút lui”[6].
Tuy vậy, cũng như ở đồng bằng Bắc Bộ, do điều kiện kinh tế, chính trị, trình độ khoa học kỹ thuật, có lúc chi phối hệ thống đê điều, thủy nông có ở Thái Bình trước 1883, đã bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém. Chúng được xây dựng và phát triển thiếu một quy hoạch thống nhất, đồng bộ. Nguyên vật liệu xây dựng các công trình chủ yếu bằng vôi, cát, gạch, đá, gỗ lim, tre, chưa biết sử dụng những nguyên liệu xây dựng có chất kết dính, rắn chắc (xi măng, sắt, thép) để có thể trụ vững trước sự tàn phá dữ dội củ khí hậu và thiên tai. Khả năng tưới tiêu, chống hạn, úng của các công trình chỉ phục vụ trong từng vùng đất nhỏ hẹp. Đê, kè, cống, đập dễ bị sạt, lỡ. Theo “Đai Nam thực lục” vào đầu thế kỷ XIX, ở Thái Bình có hai lần vỡ đê lớn: 1828 vỡ đê Thanh Nga (Hưng Nhân; 1847 vỡ đê Mỹ Lộc (Thư Trì). Thời Tự Đức (1848-1883) có nhiều lần vỡ đê lớn: 1856 vỡ đê Phú Chữ (Thư Trì); 1857 vỡ đê Hà Lão (Hưng Nhân) và đê Phú Chữ (Thư Trì); 1872 vỡ đê huyện Duyên Hà… Những thiên tai dồn dập như vậy đã dẫn đến cảnh mất mùa, chết đói diễn ra nhiều nơi ở Thái Bình.
Một vài tài liệu viết về mặt hạn chế của các công trình thủy lợi Thái Bình trước 1883 như sau: “Đã từ lâu trước khi người Pháp sang, nhân dân trong tỉnh đã hiểu rõ lợi ích của việt sử dụng hệ thống sông ngòi chằng chịt mà thiên nhiên đã dành cho họ. Với bàn tay của mình, họ dã đào thêm một số kênh. Thông thường những con kênh này bị vùi lấp ít lâu sau khi đào. Nhưng nhìn chung họ không có chương trình chính xác, không có kế hoạch nhất quán trong việc đồng án, mà chỉ bằng lòng sử dụng nước sẵn có, tùy theo sức mình có thể làm được.
Vì vậy, nhiều diện tích rộng lớn thiếu nước để làm vụ tháng 5, rất nhiều vùng trũng không làm được vụ tháng 10. Vì tiêu úng quá kém, còn lại là vô số đất đai vùng giữa tỉnh khô cứng làm hai vụ tháng 5 và tháng 10 bấp bênh”[7].
Một đôi nét về thủy lợi Thái Bình thời Nguyễn cho phép chúng tôi rút ra kết luận rằng: các vua đầu thời Nguyện đã quan tâm đến công tác thủy lợi để phát triển nông nghiệp, nhằm giải quyết những khó khăn về kinh tế, ổn định tình hình xã hội, chính trị. Công sức là do nhân dân song kế hoạch tổ chức, chỉ huy có phần đóng góp không nhỏ của vua quan. Tuy nhiên, những chính sách của nhà Nguyễn chứa đựng nhiều mâu thuẫn, đã hạn chế nhiều kết quả công tác thủy lợi. Ruộng đất không được khai hoang phần lớn rơi vào tay địa chủ, phong kiến; nông dân vẫn thiếu ruộng cày, ách thống trị, áp bức với tô, thuế, lao dịch vẫn đè nặng trên lưng người nông dân.




ß Khoa Lịch sư – Trường ĐHSP Hà Nội
[1] Đại Nam thực lực, NXB KHXH, Hà Nội, 1962, tập 3, tr.357, tập 4, tr.5
[2] Bùi Quý Lộ, Ngọc Yên: Cuộc khẩn hoang thành lập huyện Tiền Hải, 1828, BCH Đảng bộ huyện Tiền Hải, 1988, tr. 63-64
[3] Đại Nam thực lục, sđd, tập 9, tr. 306-307
[4] Sđd, tập 19, tr.255
[5] Sđd, tập 35, tr.10
[6] Pasquier. P. Tỉnh Thái Bình, trong quyển “Những tỉnh Bắc Kỳ”, trích tạp chí “Đông Dương”, 6 tháng đầu năm 1904. Bản dịch tiếng Việt, lưu ở thư viện Thái Bình, ký hiệu ĐCV 30-32
[7] Tỉnh Thái Bình. Ghi chú của Công sứ tỉnh. Bản dịch tiếng Việt, lưu tại thư viện Thái Bình, ký hiệu ĐCV 230-233.


Theo "Lịch sử nhà Nguyễn một cách tiếp cận mới".

No comments:

Post a Comment